|
|
Cuộc vận
động chủ nghĩa cộng sản mà ồn ào
hơn một thế kỷ chỉ mang lại cho nhân
loại chiến tranh, nghèo khổ, đẫm máu và chuyên
chế. Với sự sụp đổ của Liên Bang Sô
Viết và các Đảng Cộng Sản Đông Âu, vở
kịch tai hại và tàn bạo này cuối cùng đă
bước sang màn chót vào cuối thế kỷ vừa qua.
Không một ai, từ thường dân đến Tổng bí
thư Đảng, c̣n tin vào những lời ma quỷ
của chủ nghĩa Cộng Sản nữa.
Chính quyền
của Đảng cộng sản ra đời không
phải “theo ư trời” (quân quyền thần thụ) [1]
cũng không phải từ bầu cử dân chủ. Ngày nay,
khi niềm tin tưởng triệt để vào sự sinh
tồn của nó đă bị hủy diệt th́ tính hợp
pháp của sự chấp chính này đang đối
diện với một thử thách chưa từng có trong
lịch sử.
Đảng
cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đă không muốn
tuân theo trào lưu lịch sử mà tự động thoái
xuất khỏi vơ đài lịch sử. Thay vào đó, nó
sử dụng các loại thủ đoạn lưu manh
đă được h́nh thành trong nhiều thập niên qua các
cuộc vận động chính trị để bắt
đầu lại một ṿng
t́m kiếm tính hợp pháp, và để hồi sinh
sự tranh đấu điên loạn của nó.
Các chính sách
cải cách và cởi mở của Đảng cộng
sản Trung Quốc che đậy một ư định
tuyệt vọng là duy tŕ lợi ích tập đoàn và chính
quyền độc tài của nó.
Dù rằng bị trói buộc chặt chẽ, các thành quả kinh tế vẫn cứ đạt được bởi nỗ
lực của nhân dân Trung
Quốc trong 20 năm qua, tuy vậy vẫn không thuyết phục được
ĐCSTQ buông con dao đồ tể của nó xuống. Thay
vào đó, ĐCSTQ đă ăn cắp các thành quả này và sử dụng chúng để
chứng thực việc nắm chính quyền của nó là hợp pháp, làm cho các hành
động lưu manh từ trước đến nay
của nó c̣n giả dối và lầm lạc hơn.
Điều đáng sợ hơn là ĐCSTQ đang toàn lực hủy diệt nền tảng đạo
đức của toàn thể dân tộc, cố gắng biến
đổi mỗi một
công dân Trung Quốc, trở thành các kẻ lưu manh ở
mức độ khác nhau
để tạo nên một hoàn cảnh sinh
tồn mà
“thăng tiến
với thời gian” cho ĐCSTQ.
Vào thời điểm lịch sử hôm nay, đặc biệt quan
trọng cho chúng ta
hiểu
được tường
tận tại sao Đảng cộng
sản lại hành
động giống như những tên lưu
manh, và cho chúng ta
nhận diện cái bản
tính lưu
manh của nó, có như
vậy đất nước Trung Quốc mới có
thể đạt được ổn định và ḥa
b́nh lâu dài, bước vào một thời
đại không
có Đảng
cộng sản càng
sớm càng tốt, và xây dựng một
tương lai huy hoàng của một đất
nước đă được hồi phục.
Trong lịch sử , cứ mỗi lần Đảng cộng sản
Trung Quốc (ĐCSTQ) gặp phải nguy cơ nó sẽ biểu lộ một số
dấu hiệu cải tiến, làm mê hoặc người dân mà h́nh thành những ảo tưởng về ĐCSTQ.
Nhưng không một ngoại lệ, các ảo tưởng đă tan vỡ từng lần, từng lần
một. Ngày nay ĐCSTQ
đang theo đuổi các lợi ích ngắn hạn
nhằm tŕnh diễn một màn thịnh vượng
kinh tế để
một lần nữa thuyết phục người dân tin vào các ảo tưởng của Đảng Cộng
Sản. Tuy nhiên, những
xung đột căn bản giữa lợi ích của bản thân Đảng cộng
sản,
với lợi ích của quốc
gia dân
tộc đă quyết
định rằng sự thịnh vượng giả tạo này sẽ không kéo dài lâu nữa. “Sự
cải cách” mà ĐCSTQ đă hứa hẹn chỉ có
một mục đích: duy tŕ sự thống trị của
Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Đó là một cải cách yếu kém khập khiễng, một
thay đổi trên bề mặt chứ không phải
bản chất. Nằm bên dưới của sự phát
triển khập khiễng là đang tiềm ẩn một nguy
cơ to lớn của xă
hội. Một khi nguy cơ bùng nổ, quốc gia và dân tộc một lần nữa
sẽ gặp khổ
nạn.
Với sự thay đổi lănh tụ, thế hệ lănh đạo mới
của ĐCSTQ không có phần trong cuộc cách mạng cộng sản
thời xưa, bởi thế sẽ có ít uy tín và
ít tín nhiệm
hơn trong việc
điều hành quốc gia. Giữa cơn nguy
cơ về tính
cách hợp pháp của nó, việc bảo vệ lợi
ích Đảng
của ĐCSTQ đă trở
thành một bảo đảm căn bản càng ngày càng tăng nhằm duy tŕ quyền
lợi của những cá nhân trong nội bộ
của ĐCSTQ. Ích
kỷ mà không kiềm chế
được là bản tính của Đảng
cộng sản . Hy
vọng vào
một Đảng như vậy mà có thể hiến dâng chính nó để phát triển quốc
gia một cách ḥa b́nh
th́ chỉ là một
mơ tưởng hăo huyền.
Chúng ta hăy xem tờ Nhân dân nhật báo, cái loa của
ĐCSTQ, đă nói ǵ trên trang đầu vào ngày 12/7/2004:
“Những phương pháp biện chứng trong lịch sử đă dạy cho những
người của ĐCSTQ
điều sau đây: Điều nên đổi th́
tất phải
thay đổi, nếu không, suy
đồi sẽ theo
sau. Điều ǵ không nên đổi th́
quyết không
thể thay đổi, nếu không, nó sẽ dẫn đến tự huỷ diệt.”
Cái ǵ cần phải giữ không đổi? Tờ Nhân Dân nhật báo giải thích như thế
này: “Đường
lối cơ bản của Đảng là 'một trung tâm, và hai điểm cơ bản' phải kéo dài vững chắc trong trăm
năm không một dao động”[2]. Người ta không nhất thiết phải hiểu cái
gọi là “trung tâm” và “điểm cơ bản” thực ra là cái ǵ, song mọi người đều
biết rằng cái quyết tâm của tà linh cộng sản là duy tŕ
lợi ích
tập thể, và sự chuyên chế độc tài sẽ không bao
giờ thay đổi. Chủ nghĩa cộng sản
đă bị thất bại trên toàn cầu, đang bị
sụp đổ đến độ càng ngày càng suy tàn.
Tuy nhiên, trong khi vẫy vùng hấp hối th́ một thứ
ǵ càng thối nát lại càng có tính tàn phá. Bàn luận về cải biến dân chủ với Đảng
Cộng Sản chẳng khác ǵ yêu cầu cọp dữ thay bộ da của nó.
Trong khi Đảng Cộng Sản đang suy bại, người
ta bất ngờ khám
phá ra rằng,
qua nhiều thập niên, tà
linh phụ thể của Đảng cộng
sản với những
thủ đoạn lưu manh thiên biến vạn hóa đă
tiêm nhiễm những yếu tố tà ác của nó vào trong mọi khía
cạnh đời sống của người dân.
Khi Mao Trạch Đông chết, nhiều người
đă khóc cay đắng trước tấm h́nh của Mao,
tự hỏi “Không có Mao chủ tịch, Trung Quốc
sẽ làm thế nào?” Mỉa mai thay, 20 năm sau, khi
Đảng Cộng Sản đă mất tính hợp pháp
để nắm chính quyền quốc gia của nó, Đảng
Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đă cho lan rộng một đợt
tuyên truyền mới làm người dân một lần nữa lại tự
hỏi một cách lo âu: “Nước Trung Hoa sẽ làm được ǵ nếu không có
Đảng Cộng Sản?”
Trên thực tế, sự khống chế chính trị
lan tràn khắp nơi của ĐCSTQ đă khắc sâu vào
nền văn hóa hiện tại và tư tưởng
người Trung Quốc đến nỗi ngay cả
chuẩn mực mà người Trung Quốc đánh giá
ĐCSTQ đều có dấu ấn của ĐCSTQ hoặc
xuất phát từ ĐCSTQ. Nếu trong quá khứ ĐCSTQ
khống chế dân chúng bằng cách tiêm nhiễm những yếu tố của nó vào
họ, th́ giờ đây ĐCSTQ đă đến lúc
phải gặt hái những ǵ nó gieo mầm, bởi v́
những điều thấm nhuần trong tâm trí
người dân đă được tiêu hóa và hấp
thụ vào từng tế bào của họ. Người dân
suy nghĩ dựa theo lư luận của ĐCSTQ, và tự đặt ḿnh vào vị trí
của ĐCSTQ mà phán xét đúng sai. Nói về việc ĐCSTQ thảm sát các
sinh viên biểu t́nh ngày 4/6/1989, có người bảo
“Nếu tôi là Đặng Tiểu B́nh tôi cũng sẽ
dập tắt cuộc nổi loạn bằng xe tăng”.
Trong cuộc đàn áp Pháp Luân Công, có người hùa theo
rằng “Nếu tôi là Giang Trạch Dân, tôi cũng
sẽ tiêu diệt Pháp Luân
Công.” Về việc cấm tự do ngôn luận, có người
bảo rằng “Nếu tôi là Đảng
cộng sản tôi cũng làm
như vậy.” Chân lư và lương tri không
c̣n nữa, chỉ c̣n
lại lô-gic của Đảng cộng
sản. Đây là một
trong những thủ đoạn độc ác và ghê tởm
nhất của ĐCSTQ mà đă được ĐCSTQ sử dụng v́ bản tính lưu manh của nó. Khi nào những
độc tố tinh thần mà ĐCSTQ đă tiêm nhiễm
vào vẫn c̣n trong đầu óc người ta, th́ ĐCSTQ càng có cơ hội tiếp
tục thâu đoạt năng lượng để duy tŕ
sinh mạng
lưu manh của nó.
“Nước Trung Quốc sẽ làm được ǵ
nếu không có Đảng Cộng
Sản?” Lối suy nghĩ
này phù hợp chính xác với mục đích của ĐCSTQ
là làm cho người dân suy luận theo lô-gic của nó.
Dân tộc Trung Hoa đă trải qua 5000 năm lịch sử văn minh
của họ mà không có Đảng cộng sản. Thực tế, không một quốc
gia nào trên thế
giới lại ngừng tiến triển xă hội chỉ
v́ sự sụp đổ của một chế độ
nào đó. Tuy nhiên sau hàng chục thập niên dưới
sự thống trị của ĐCSTQ, người ta đă không c̣n nhận ra được
sự thực này. Sự
tuyên truyền lâu dài của ĐCSTQ đă rèn luyện người dân nghĩ
Đảng như là mẹ đẻ của họ. Chính trị của ĐCSTQ có mặt ở
khắp nơi đă khuất phục người ta, làm cho họ không thể nhận thức
được cuộc sống không có Đảng
cộng sản sẽ ra sao.
Không có Mao chủ tịch, Trung Quốc đă không đổ vỡ;
vậy không có Đảng
cộng sản th́
nước Trung Hoa sụp đổ hay sao? !
Rất nhiều người biết và không thích
những hành vi lưu manh của Đảng
Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ), và ghê tởm những thứ đấu tranh và dối
trá của nó. Nhưng đồng thời họ lại
sợ hăi những cuộc vận động chính trị
của ĐCSTQ và những bạo
động gây rối
loạn, rồi sợ rằng sự rối loạn một lần
nữa sẽ viếng thăm Trung Quốc. Bởi thế,
mỗi khi ĐCSTQ hăm dọa người dân với
chữ “rối loạn”; người dân liền
im lặng chấp nhận sự thống trị của ĐCSTQ, cảm thấy bất
lực khi đối
diện với quyền lực chuyên chế của ĐCSTQ.
Trên thực tế, với hàng triệu quân đội và
cảnh sát vơ trang, ĐCSTQ là nguồn rối loạn
thật sự. Những người dân thường không
tài nào gây nên hoặc có khả năng khởi xướng
rối loạn cho quốc gia. Chỉ có ĐCSTQ thoái hóa mới
nhẫn tâm mang đất
nước đến rối loạn qua bất
cứ dấu hiệu thay đổi nào. “Ổn
định quan trọng hơn tất cả mọi
thứ” và “Nhổ tận gốc mầm mống của
tất cả các yếu tố nguyên nhân làm bất ổn định” — các khẩu hiệu
này đă trở thành nền móng lư luận mà ĐCSTQ dùng để đàn áp người dân. Vậy ai là nguyên nhân lớn nhất
tạo ra sự bất ổn định tại Trung Quốc? Chẳng phải là ĐCSTQ, một chính quyền chuyên dùng bạo
lực? ĐCSTQ là chủ mưu của rối loạn, và
sau đó đến lượt nó lại dùng chính sự
rối loạn nó tạo ra ấy để ép buộc
người dân. Những bọn lưu
manh xưa nay đều làm như thế cả .
Đảng cộng sản Trung Quốc(ĐCSTQ) tự nhận “tính hợp pháp” của nó do
từ sự phát triển
kinh tế hơn 20 năm qua. Tuy nhiên trên thực tế
sự phát triển này đă dần dần đạt
được nhờ nhân dân Trung Quốc
lao động, sau khi những
gông cùm của ĐCSTQ được nới lỏng
một chút, do đó sự phát triển kinh tế không liên
quan ǵ đến công lao của chính ĐCSTQ. Dầu
vậy, ĐCSTQ đă tuyên bố là sự phát triển kinh
tế này là do thành tựu của chính nó, và yêu cầu người dân phải
biết ơn Đảng, như thể là sẽ không có
một phát triển nào nếu không có ĐCSTQ. Trong thực
tế tất cả chúng ta đều biết rằng có
nhiều quốc gia phi cộng sản, từ lâu đă đạt
được việc
tăng trưởng kinh tế nhanh chóng hơn nữa.
Những thể
tháo gia đạt được huy chương vàng tại
thế vận hội Olympic đă bị đ̣i hỏi phải cám ơn Đảng
Cộng Sản. Đảng
không ngần ngại sử dụng h́nh ảnh bày
đặt “thể thao đại quốc ” để tự ca tụng
ḿnh. Trung Quốc đă
trải qua nhiều khổ nạn trong bệnh dịch SARS, nhưng tờ Nhân
Dân nhật báo lại nói rằng Trung Quốc đă chiến
thắng vi khuẩn “dựa theo lư luận cơ bản, đường lối
cơ bản, cương lĩnh cơ bản và kinh nghiệm cơ bản
của Đảng”. Việc phóng vệ tinh Thần Châu 5
của Trung Quốc đă được thực hiện
bởi các chuyên gia khoa học và kỹ thuật
không gian, nhưng ĐCSTQ
đă lấy đó làm bằng chứng để chứng
minh rằng chỉ có ĐCSTQ mới có khả năng
hướng dẫn người dân Trung Quốc bước
vào hàng các cường quốc trên thế giới. Sự kiện Trung Quốc làm chủ tổ
chức Thế Vận Hội
Olympic năm 2008, là thực ra các nước Tây phương ban cho Trung
Quốc cái “cành Ô-liu” (biểu trưng của đề
nghị ḥa b́nh) để khuyến khích Trung Quốc
cải thiện t́nh h́nh nhân quyền, nhưng
ĐCSTQ dùng
điều này để nâng cao những tuyên bố về
tính hợp pháp của nó, và để dùng như một cái cớ
để trấn áp người dân Trung Quốc. “Tiềm lực thị trường lớn mạnh”
của Trung Quốc có được nhờ vào các nhà
đầu tư ngoại quốc, bắt nguồn từ
năng lực tiêu thụ của 1.3 tỷ người dân của Trung Quốc. ĐCSTQ đă
chiếm đoạt tiềm lực này, và rồi biến nó thành vơ khí sắc
bén dùng để làm áp lực các xă hội phương Tây phải hợp
tác với sự thống trị của ĐCSTQ.
Đảng
cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ)
qui tội tất cả những sự
việc xấu vào các
lực lượng phản động và các người có dụng tâm xấu làm, trong khi đó nhận những sự
việc tốt về cho ban
lănh đạo của Đảng. ĐCSTQ sử dụng
mỗi một thành quả để khiến cho
việc tuyên bố về
tính hợp pháp trong sự thống trị của nó có sức
thuyết phục hơn. Ngay cả những việc làm sai
mà ĐCSTQ phạm phải có thể được biến thành cái ǵ đó
“tốt” để phục vụ các mục đích của
nó. Ví dụ khi sự thật về vấn
đề lan tràn
khủng khiếp của bệnh AIDS không c̣n che dấu
được nữa, ĐCSTQ đột
nhiên chế tạo ra một
bộ mặt mới. Chúng
khéo léo vận chuyển bộ máy tuyên truyền, sử
dụng tất cả mọi người từ minh tinh
nổi tiếng đến Tổng bí thư Đảng để tô
vẽ chân dung ĐCSTQ, kẻ thủ phạm đầu sỏ,
thành người tiêu diệt bệnh AIDS, người thách
đấu với bệnh tật của nhân
loại, và như là một điều may mắn cho
bệnh nhân. Trong việc giải
quyết những
vấn đề liên quan tới sống chết nghiêm
trọng như vậy, tất cả những ǵ ĐCSTQ có
thể nghĩ đến là làm thế nào mà sử dụng vấn đề đó
để tự ca ngợi ḿnh. Chỉ có ĐCSTQ mới có
khả năng hành động nhẫn tâm, lưu manh
chiếm đoạt và hoàn toàn không kể ǵ đến
mạng sống con người.
Đối diện nghiêm trọng với “nguy cơ về tính hợp pháp”, ĐCSTQ đă
thực hiện các chính sách cải cách và mở cửa vào thập
niên 80 để duy tŕ
sự thống trị của nó. Háo hức thành công nhanh chóng đă
đặt Trung Quốc vào một thế bất lợi mà
những nhà kinh tế học gọi là “tai họa cho
kẻ đến muộn”.
Những khái niệm “tai họa cho kẻ đến
muộn” hoặc là “lợi thế cho kẻ đến muộn”, mà
một số các học
giả đă gọi, là
chỉ về sự
kiện của các quốc
gia lạc hậu, có nghĩa là
sự phát triển được khởi công muộn, có
thể bắt chước các nước tiến
bộ trước,
trong nhiều mặt. Có hai h́nh thức bắt chước:
bắt chước hệ thống xă hội và bắt
chước các mô h́nh kỹ thuật và công nghiệp. Thông
thường bắt
chước hệ thống xă hội là khó, v́ cải
tổ hệ thống có thể gây nguy hiểm đến
quyền lợi tương lai của một số tập
đoàn chính trị hay xă
hội. V́ vậy các quốc gia lạc hậu có khuynh hướng bắt chước
kỹ thuật của các nước tiên tiến. Mặc
dầu bắt chước kỹ thuật có thể
tạo nên phát triển kinh tế nhất thời, nhưng
nó có thể dẫn đến nhiều
may rủi tiềm
ẩn hoặc ngay cả thất bại đối với mục
tiêu phát triển dài hạn.
Đảng cộng sản Trung
Quốc(ĐCSTQ) chính là đang
đi theo con đường “tai họa cho kẻ đến muộn”, một con
đường thất bại. Qua hai thập niên vừa
rồi, “bắt
chước kỹ thuật” của Trung Quốc đă
thật sự dẫn đến một số thành tích, mà ĐCSTQ đă chiếm về phần ḿnh, hầu để chứng minh “tính hợp pháp” của
nó, và tiếp
tục ngăn cản cải cách chính trị mà có lẽ
sẽ làm hại tới lợi ích riêng của ĐCSTQ. V́
vậy, lợi ích lâu dài của quốc gia đă bị hy
sinh.
Trong khi Đảng Cộng sản Trung Quốc(ĐCSTQ) không ngừng khoe khoang về tiến
bộ kinh tế của ḿnh, th́ trên thực tế, kinh tế Trung Quốc
ngày nay sắp hạng trên thế giới c̣n thấp hơn thời
của vua
Càn Long (1711-1799) trong triều đại nhà Thanh. Trong
thời vua
Càn Long, GDP (Gross Domestic Products hay Tổng
sản lượng quốc nội) của Trung Quốc được coi
như bằng 51% của tổng số trên thế giới. Khi Tôn Trung Sơn thành lập
nước Cộng ḥa Trung Quốc (thời Quốc Dân
Đảng) vào năm 1911, GDP của Trung Quốc
bằng được khoảng 27% của tổng số
thế giới. Vào 1923, tỷ lệ phần trăm
giảm xuống, nhưng vẫn c̣n được 12%.
Đến 1949, khi ĐCSTQ nắm chính quyền, tỷ
lệ xuống đến 5.7%, nhưng đến 2003, GDP
của Trung Quốc giảm xuống ít hơn 4% tổng
số của thế giới. Tương phản với sự
tụt dốc kinh tế trong thời kỳ Quốc Dân
Đảng v́ phải trải qua nhiều chục
năm chiến tranh, th́ sự tụt dốc kinh tế liên
tục trong thời kỳ ĐCSTQ nắm quyền lại
xảy ra trong thời ḥa b́nh.
Ngày nay, để hợp pháp hóa quyền lực của
ḿnh, ĐCSTQ hăm hở muốn đạt thành công nhanh
chóng và những lợi ích tức thời. Sự cải
cách kinh tế khập khiễng mà ĐCSTQ đă phát
động hầu để bảo vệ lợi ích riêng
tư cho chính nó, là một tổn thất lớn cho quốc
gia. Sự
phát triển kinh tế nhanh
chóng trong 20 năm qua, tới một phạm vi rộng,
được xây dựng trên sự lạm dụng
hoặc ngay cả lăng phí các nguồn tài nguyên, và đă
đạt được với cái giá của sự tàn
phá môi trường. Một phần lớn GDP của Trung Quốc đạt
được bằng cách hy sinh những cơ hội
của các thế hệ tương lai. Vào 2003, Trung
Quốc đă đóng góp dưới 4% cho kinh tế thế
giới, trong khi đó mức tiêu thụ về sắt, xi măng và những vật dụng khác lên
đến 1/3 tổng
số tiêu thụ toàn cầu [3].
Từ thập niên 1980 đến cuối thập niên
1990, những vùng đất bị bỏ hoang ở Trung Quốc tăng từ 1.000 đến 2.460 ki-lô mét vuông (386 đến 950 dặm vuông). Đất trồng trọt cho mỗi
đầu người cũng giảm sút từ 2 mẫu
vào năm
1980 đến 1,43 mẫu vào năm 2003 [4]. Phong
trào lớn mạnh
thu hồi/giải tỏa đất đai
rầm rộ để phát
triển,
đă làm Trung Quốc mất 100 triệu mẫu đất để
trồng trọt trong ṿng chỉ vài năm. Tuy nhiên, thực
tế tỷ lệ đất thu hồi được
đem sử dụng chỉ là 43%. Hiện thời,
tổng số lượng nước phế thải là
43,95 triệu tấn, vượt quá 82% dung lượng của môi trường. Trong bảy hệ thống sông ng̣i chính,
th́ 40,9%
lượng nước
không thích hợp để dùng cho người và súc vật uống.
75% mương hồ bị ô nhiễm nên đă sinh ra các
mức độ phú dưỡng rong rêu, chất
bẩn trong nước
khác nhau[5]. Chưa bao giờ sự xung đột
giữa người và sự Tự Nhiên tại Trung Quốc lại căng
thẳng như ngày nay. Trung Quốc hay thế giới không
tài nào cưỡng lại sự phát triển không
lành mạnh như
vậy. Bị che mắt
bởi hào nhoáng bề mặt của các cao ốc và
biệt thự, người dân không biết đến sự khủng hoảng sinh
thái đang treo lơ lửng. Tuy nhiên, hễ đến lúc luật tự nhiên trừng phạt nhân loại,
nó sẽ mang đến những hậu quả thảm
khốc cho nước Trung Hoa.
So sánh với nước Nga từ sau khi rũ bỏ chủ nghiă cộng sản, đă thực hiện cải cách kinh tế và chính
trị cùng một lúc. Sau khi trải qua một khoảng
thời gian khó khăn ngắn, Nga bắt đầu phát
triển nhanh chóng. Từ năm 1999 đến năm 2003, GDP của Nga đă tăng tổng
số được 29,9%. Mức sống người dân
cũng được cải thiện đáng kể.
Giới thương mại Tây phương đă không những bắt đầu bàn luận “hiện
tượng kinh tế Nga”, mà c̣n bắt đầu
đầu tư vào Nga —một thị
trường nóng
hổi mới— trên phạm
vi rộng. Thứ hạng của Nga trong các quốc gia
hấp dẫn nhất để đầu tư, đă nhảy từ vị trí thứ 17
vào năm
2002 đến vị trí thứ 8 trong
năm 2003, lần
đầu tiên trở thành một trong 10 nước
hấp dẫn nhất trên thế giới để
đầu tư.
Ngay cả Ấn độ, một quốc
gia mà trong tư
tưởng của hầu hết người dân Trung
Quốc là nghèo nàn và đầy những xung đột
sắc tộc, đă hưởng được sự phát triển vượt
bực
và đạt được thành tựu phát triển kinh
tế với tỷ lệ là 7-
8% hằng năm
từ khi cải cách kinh tế vào năm 1991. Ấn
Độ có hệ thống pháp luật khá đầy
đủ về kinh tế thị trường, một
hệ thống tài chính dồi dào, một hệ thống
dân chủ phát triển tốt, tâm thái người dân ổn định. Quốc
gia này đă
được cộng đồng quốc tế công
nhận là một nước có tiềm lực phát triển lớn.
Tương phản lại, ĐCSTQ, chỉ tham gia vào
cải cách kinh tế mà không có cải cách chính trị.
Bộ mặt kinh tế giả tạo nở rộ
nhất thời đă cản trở “sự phát triển
các hệ thống xă hội” tự nhiên. Chính sự cải
cách không đầy đủ này đă gia tăng sự
mất cân bằng trong xă hội Trung Quốc và làm các mâu
thuẫn xă hội càng thêm sâu sắc. Những lợi tức tài chính mà người dân đạt được
lại không được
các hệ thống xă hội ổn định bảo
vệ. Hơn thế nữa, trong quá tŕnh tư hữu hóa
các tài sản quốc gia, những kẻ nắm quyền hành trong
ĐCSTQ đă lợi dụng quyền thế để
nhét đầy vào túi riêng của ḿnh.
Đảng cộng sản Trung Quốc(ĐCSTQ) dựa vào nông dân để đoạt
quyền lực. Những người
nông dân trong các vùng
Đảng Cộng Sản thống trị, đă cống hiến tất
cả những ǵ họ sở hữu cho ĐCSTQ từ lúc
nó mới phôi thai. Nhưng sau khi ĐCSTQ nắm quyền
lực quốc gia, những người nông dân đă
phải trải qua
một sự
phân biệt đối
xử trầm trọng.
Sau khi ĐCSTQ thành lập chính quyền, nó đă sắp
xếp một hệ thống vô cùng bất công: đó là
hệ thống đăng kư cư trú. Hệ thống này ép
buộc chia người dân thành 2 loại: nông dân và dân thành thị, tạo ra một
sự chia rẽ vô lư và chống đối trong nội
bộ quốc gia. Nông dân không có bảo hiểm sức
khỏe, không có tiền trợ cấp thất nghiệp,
không có tiền hưu trí và không được vay tiền
ngân hàng. Người nông dân không những thuộc giai cấp bần cùng nhất
tại Trung Quốc, mà cũng là giai cấp bị đánh thuế nặng
nhất. Nông dân cần phải trả tiền cho quỹ
tiết kiệm bắt buộc, quỹ trợ
cấp xă hội, quỹ
quản lư hành chánh, lệ phí giáo dục bổ xung, lệ
phí kiểm soát sinh đẻ, lệ phí tổ chức và
huấn luyện quân đội, lệ phí xây đường
quốc gia và lệ phí bồi thường quân sự. Bên
cạnh tất cả lệ phí này, họ c̣n phải bán
một phần thóc lúa mà họ đă sản xuất theo
một tỷ lệ cố định cho nhà nước như
là một yêu cầu bắt buộc, và phải trả
thuế nông nghiệp, thuế đất, thuế sản
xuất vùng đặc biệt, thuế giết mổ và
c̣n thêm vào nhiều thuế khác. Ngược lại dân
cư thành thị không phải trả thuế và những
lệ phí này.
Vào đầu năm 2004, Thủ tướng Ôn Gia
Bảo đă phát hành “hồ sơ số 1” nói rằng nông
thôn Trung Quốc đang đối diện với t́nh
thế khó khăn nhất từ khi bắt
đầu cải cách kinh
tế vào năm 1978. Lợi tức của hầu hết nông dân đă không
tăng hoặc ngay cả c̣n xuống dốc. Họ càng nghèo hơn,
và sự cách
biệt lợi
tức giữa dân nông thôn
và dân thành thị tiếp tục nới rộng ra.
Trong một lâm trường ở phía đông tỉnh
Tứ Xuyên, nhà chức trách cấp trên đă chi ra 500
ngàn đồng
yuan (khoảng 60.500
đô la Mỹ) cho một chương tŕnh trồng
lại rừng. Những
người lănh đạo lâm trường trước
hết bỏ túi 200 ngàn đồng yuan, rồi mới phân phối 300
ngàn đồng
yuan c̣n lại
để trồng rừng. Nhưng mỗi khi qua mỗi
một cấp quản lư, số tiền lại bị mất
dần, cuối cùng chỉ
c̣n lại một ít dành cho những nông dân trong vùng,
những người mà thật sự trồng
rừng. Chính quyền không cần phải lo lắng
rằng những người nông dân sẽ từ chối
làm việc v́ ngân khoản không đủ. Những nông dân này quá nghèo
đến nỗi họ phải làm việc với
tiền công rất ít. Đây là một trong những lư do mà sản phẩm sản xuất tại Trung Quốc “made
in China” lại rất rẻ.
Nhiều người tưởng rằng buôn bán với
Trung Quốc sẽ thúc đẩy nhân quyền, tự do
ngôn luận và cải cách dân chủ cho Trung Quốc. Sau
hơn một thập niên, điều này
đă được chứng
minh rằng chỉ là
mơ tưởng. Điển h́nh nhất chính là nguyên tắc làm ăn
buôn bán ở Trung Quốc
và các nước Tây phương. Sự công bằng và sáng tỏ tại các nước Tây phương được thay thế
bởi những quan hệ riêng cá nhân, hối lộ và biển thủ
ở Trung Quốc. Nhiều công ty Tây phương đă
trở thành thủ phạm hàng đầu v́ đă làm
trầm trọng thêm sự thối nát của Trung Quốc.
Một số công ty ngay cả c̣n giúp ĐCSTQ dấu diếm các vi phạm nhân quyền và đàn áp chính dân
chúng của nó.
Đảng cộng sản Trung Quốc(ĐCSTQ) hành động như Mafia bằng cách chơi ván bài kinh tế
trong chính sách đối ngoại. Hợp đồng
chế tạo máy bay cho Trung Quốc sẽ được giao cho
nước Pháp
hay
nước Mỹ
th́ c̣n tùy
thuộc vào quốc
gia nào có thể
ngậm miệng về vấn đề nhân quyền
của ĐCSTQ. Nhiều thương gia Tây phương và chính trị gia
bị dẫn dắt và khống chế bởi lợi ích kinh tế từ Trung Quốc. Một
số công ty kỹ thuật về thông tin từ Bắc Mỹ đă cung
cấp các sản phẩm đặc biệt cho ĐCSTQ
để ngăn chặn Internet. Để đi vào thị
trường Trung Quốc, một số website Internet đă
đồng ư tự kiểm duyệt và lọc đi tin
tức mà ĐCSTQ không thích.
Căn cứ trên
thống kê từ Bộ
Thương Mại của Trung Quốc, vào cuối tháng 4
năm 2004, Trung Quốc
đă thống kê được tổng cộng
990 tỉ đô la
Mỹ, tiền đầu tư của ngoại quốc trong nhiều hợp đồng khác nhau.
Đầu tư từ tiền vốn ngoại quốc
đă có tác dụng 'truyền máu' mạnh mẽ cho nền kinh tế của ĐCSTQ. Nhưng trong quá tŕnh
'truyền máu' này, sự đầu tư
của ngoại quốc
đă không mang các
khái niệm
của dân chủ, tự do
và nhân quyền làm thành nguyên tắc cơ
bản cho người dân
Trung Quốc. Thay vào đó ĐCSTQ đă lợi dụng sự
hợp tác "vô điều kiện" từ phía các nhà đầu tư
ngoại quốc, chính quyền
ngoại quốc và sự xu nịnh của vài quốc gia để tuyên
truyền cho sự thống trị tư bản. Bằng cách lợi dụng sự
thịnh vượng kinh tế trên bề mặt của Trung Quốc, các viên chức ĐCSTQ đă trở nên cực
kỳ lăo luyện trong việc cấu kết với các nhà
buôn bán đầu tư
để phân chia tài sản quốc gia và ngăn
chặn cải cách chính
trị.
Người ta thường nghe nói rằng: “Tôi biết
trong quá khứ Đảng Cộng Sản Trung
Quốc (ĐCSTQ) hay dối trá, nhưng lần này nó nói
sự thật”. Mỉa mai thay, khi hồi tưởng lại, đây là câu mà
người dân nói mỗi lần ĐCSTQ tạo ra sai
lầm nghiêm trọng trong quá khứ. Điều này
phản ảnh khả năng mà ĐCSTQ đạt được
qua nhiều thập niên là dùng dối trá để lường
gạt người dân.
Người ta đă thành lập một
số kháng cự
để chống
lại những lời hoang ngôn quá mức của ĐCSTQ.
Để đáp lại, sự tuyên truyền và bịa
đặt của ĐCSTQ đă trở nên “tinh
xảo” và “chuyên nghiệp”
hơn. Tiến bộ từ những tuyên truyền theo kiểu
khẩu hiệu trong quá khứ, những lời dối
trá của Đảng cộng
sản đă trở nên “trau chuốt” và “tinh xảo” hơn. Đặc biệt dưới t́nh
trạng bưng
bít tin tức mà
ĐCSTQ đă dựng lên chung quanh Trung Quốc, nó bịa đặt những điều dựa trên một phần
sự kiện để đánh lạc hướng công chúng, những
điều mà ngay
cả c̣n độc hại và dối trá hơn là những chuyện
bịa đặt thông thường.
Chinascope (Trung Quốc
Tụ Tiêu), một tờ báo tiếng Anh, có một bài viết vào tháng 10
năm 2004 phân tích những
trường hợp mà ĐCSTQ đă sử dụng
những cách thức chế
tạo lời dối trá để che đậy sự
thật. Khi vụ SARS bùng nổ tại Trung Quốc
đại lục
vào năm
2003, thế giới bên ngoài nghi ngờ Trung Quốc dấu
diếm tin tức về bệnh dịch, tuy rằng ĐCSTQ đă nhiều lần chối
bỏ để không
thừa nhận nó. Để t́m hiểu ĐCSTQ có thành
thật trong việc báo cáo bệnh SARS hay không, tác giả
của bài viết đă đọc tất cả trên 400 báo
cáo về vụ SARS từ lúc khởi đầu
cho đến tháng 4
năm 2003 trên website Tân
Hoa.
Những báo cáo này nói rằng: Ngay lúc SARS xuất
hiện, chính quyền tại trung ương và các cấp địa
phương đă huy động các chuyên gia kịp
thời chữa bệnh cho các bệnh nhân và sau đó
họ đă lành bệnh và được xuất viện.
Đối phó với các thành phần gây rối kích
động dân chúng đi mua sắm hàng hóa tích trữ
để tránh đi ra ngoài pḥng khi bệnh dịch lan tràn,
chính quyền đă lập tức chận đứng
tin đồn,
và xúc tiến ngăn ngừa tin đồn lan rộng, v́
vậy trật tự xă
hội đă được ổn định trở
lại. Mặc dầu
một số ít các lực lượng chống Trung
Quốc vẫn khăng khăng nghi ngờ chính quyền Trung Quốc che
dấu sự thật, hầu hết các quốc gia
khác và dân
chúng không tin vào
các tin đồn này. Hội chợ Giao dịch Thương mại Quảng Châu sắp tới
sẽ có sự tham gia
lớn nhất chưa từng có của các doanh nghiệp
trên khắp thế giới. Khách du lịch từ nước ng̣̣oài
khẳng định rằng du lịch đến Trung
Quốc rất an toàn. Đặc biệt, các chuyên gia
từ Hội Y
Tế Thế Giới - WHO
[những người đă bị lường gạt bởi ĐCSTQ], đă công bố rằng chính quyền Trung Quốc đă
sẵn sàng cộng tác, và có biện pháp thích đáng để
đối phó với SARS, v́ vậy sẽ không có vấn đề ǵ. Các chuyên gia đă phê chuẩn cho tỉnh Quảng Đông được
tiến hành mở Hội chợ (sau hơn 20 ngày tŕ hoăn) sau khi đă
khảo sát vùng này.
Trên 400 bài viết này đă cho tác giả một ấn
tượng rằng ĐCSTQ rất trung thực trong
suốt bốn tháng này,
đă hành động một cách có trách nhiệm để
bảo vệ sức khỏe dân chúng, và đă làm cho mọi người tin
rằng ĐCSTQ đă không che dấu bất cứ điều ǵ. Tuy nhiên, vào 20-4-2003, Văn
Pḥng Thông Tin của Hội Đồng Quốc
Gia (Quốc vụ
viện Tân
văn) đă công bố trong buổi họp báo
của họ rằng SARS
đă thật sự lan tràn tại Trung Quốc, và như vậy thừa nhận
gián tiếp rằng chính
quyền đă che đậy bệnh dịch. Chỉ khi
đó tác giả này mới thấy sự thật và
hiểu các thủ đoạn lưu manh,
lường gạt và
“tiến cùng thời gian” mà ĐCSTQ đă sử dụng.
Trong cuộc tổng tuyển cử ở Đài loan,
Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ)
sử dụng cùng một chiến thuật “trau chuốt” và “tinh
xảo”
như trên, để tung
tin rằng bầu cử tổng thống sẽ dẫn
đến các
tai họa lớn như là tỷ lệ tự sát
lên cao, thị
trường chứng khoán sụp
đổ,
tăng trưởng
“bệnh kỳ quặc” hay bệnh tâm thần, di dân ra khỏi
đảo, gia đ́nh bất ḥa, thái độ bất
cần đời, thị
trường chứng khoán suy thoái, bắn giết bừa băi,
biểu t́nh và chống đối, bao vây dinh thự
tổng thống, xă hội mất an ninh, tṛ hề chính
trị, v.v… ĐCSTQ đă nhét đầy vào đầu người dân Trung Quốc
Đại Lục với
những luận điệu này từng ngày trong
sự cố gắng hướng dẫn người dân để họ tin rằng tất cả những tai
họa này sẽ là kết quả tệ hại của cuộc bầu cử, và Trung Quốc không bao giờ nên tổ chức bầu cử dân chủ.
Về vấn đề Pháp Luân Công, ĐCSTQ đem
ra ngay cả các cách
thức kỹ
thuật tinh xảo hơn với lừa gạt mà
được chế tạo để chụp mũ Pháp Luân Công. Những màn
biểu diễn của ĐCSTQ nối tiếp nhau mà
đến. Thảo nào mà quá nhiều người dân Trung
Quốc bị lừa gạt. Sự tuyên truyền lưu
manh của ĐCSTQ quá
dối trá đến nỗi nạn nhân của nó đă mù
quáng tin vào những lời dối trá và nghĩ rằng họ đă nắm
chắc sự thật.
Sự tuyên truyền tẩy năo của Đảng
cộng sản Trung Quốc qua nhiều thập niên trong quá khứ đă
biến đổi
trở nên “tinh xảo” và “tỉ mỉ” trong việc lường
gạt dối trá, mà là sự bành trướng tự nhiên
của bản chất lưu manh.
“Trong một quốc gia dân chủ, chủ quyền
nên nằm trong tay người dân, đây là sự
việc đi theo nguyên lư của
Trời
Đất. Nếu một quốc gia tuyên bố dân chủ, mà chủ quyền không thuộc về
người dân, điều đó nhất
định là không đi
đúng đường, và chỉ có thể được coi là lệch hướng, và quốc gia này không
phải là một quốc gia dân chủ… làm sao có
được dân chủ mà không chấm dứt sự cai trị của Đảng và không có
một cuộc bầu cử phổ thông? Trả lại
nhân quyền cho nhân dân!”
Có phải trích dẫn trên là giọng
điệu từ một
bài viết của “kẻ thù nước ngoài” để
đả kích Đảng cộng
sản Trung Quốc chăng? Thực ra, tuyên bố trên là từ Tân Hoa Nhật
Báo, tờ báo chính thức của ĐCSTQ, đăng ngày 27-9-1945.
Đảng cộng sản Trung Quốc(ĐCSTQ) từng tuyên bố ầm ỹ
phải “tổng
tuyển cử” và
đ̣i hỏi “trả lại quyền
lợi cho người dân”, nay lại xem “tổng tuyển cử” như là một sự cấm
đoán, bởi v́ nó đang nắm quyền lực. Những người dân
được mệnh danh là “cai quản và làm chủ
đất nước” không có bất cứ quyền
hạn nào để tự quyết định cho
chính họ. Không có ngôn từ nào thích hợp để
mô tả bản tính lưu manh của Đảng Cộng
Sản.
Nếu bạn cho rằng những ǵ đă xong
rồi th́
hăy để cho
qua, và tà giáo Đảng cộng sản mà đă từng gieo rắc giết chóc và thống trị quốc gia bằng dối trá, nay sẽ lại tự cải tổ, đi theo thiện lành, và sẵn ḷng “trả lại quyền
lợi cho nhân dân”, bạn lại lầm to rồi. Chúng ta hăy nghe tờ Nhân
Dân nhật báo, cái loa chính của ĐCSTQ đă nói vào ngày
23/10/2004, 60 năm sau lời tuyên bố trước công
chúng đă được trích dẫn
bên trên: “Kiểm soát
chặt chẽ h́nh thái ư thức là nhu cầu căn bản cho
cơ sở tư
tưởng và nền tảng chính trị để
củng cố sự chấp chính của Đảng”.
Gần đây nhất, Đảng cộng sản
Trung Quốc(ĐCSTQ) đă đưa ra cái gọi là “chủ nghĩa ba không”[6],
mà cái 'không' thứ nhất là “phát triển
mà không tranh luận”. “Phát triển” chỉ là
giả tạo, nhưng
“không bàn luận” được nhấn
mạnh để trở thành “một tiếng nói, một hội
trường”, mới chính là mục đích
thật sự của Đảng cộng sản Trung
Quốc.
Khi Giang Trạch Dân được phỏng vấn
bởi một phóng viên nổi tiếng, Mike Wallace, của đài
CBS vào năm 2000, về vấn
đề tại sao Trung
Quốc không tổ chức bầu cử dân chủ, Giang
đă trả lời: “Người Trung Quốc học
thức quá kém”.
Tuy nhiên, ngay từ ngày 25/2/1939, ĐCSTQ đă
kêu gào trong tờ Tân
Hoa nhật báo rằng “Họ (Quốc Dân Đảng) nghĩ rằng
sự thực hiện nền chính trị dân chủ tại Trung Quốc không phải ngày nay, mà là những năm về sau. Họ hy vọng rằng
vấn đề chính trị dân chủ nên đợi
đến lúc tŕnh độ học vấn
và sự hiểu biết
của người dân Trung Quốc được
nâng lên ngang
với các nước dân
chủ của giai cấp tư sản ở Âu
châu và Mỹ
châu… nhưng, chỉ
ở dưới chế
độ dân chủ
th́ mới
có thể giáo dục và
huấn luyện dân chúng dễ dàng
hơn”.
Sự khác biệt trong cách
giả đạo
đức giữa những ǵ Tân Hoa
nhật báo đă nói vào
năm 1939 và những ǵ Giang Trạch Dân nói vào năm 2000
đă miêu tả linh động sự thật về bộ mặt
lưu manh của Đảng cộng
sản Trung Quốc.
Sau vụ Tàn Sát Thiên An Môn vào năm 1989, ĐCSTQ lại
đứng sắp hạng trên khán đài thế giới với một thành
tích nổi tiếng về vi phạm nhân quyền trầm
trọng. Lịch
sử đă cho ĐCSTQ một cơ hội chọn
lựa: con
đường thứ nhất là tôn trọng người dân của ḿnh, và thực sự cải thiện nhân quyền, c̣n con đường thứ
hai là cứ tiếp tục
chà đạp nhân quyền bên trong Trung Quốc trong khi
giả vờ với thế giới bên ngoài là tôn trọng
nhân quyền để trốn tránh sự lên án của
quốc tế.
Bất hạnh thay, Đảng cộng
sản Trung Quốc(ĐCSTQ), luôn luôn giữ bản tính lưu manh,
đă chọn con đường thứ hai mà không mảy
may do dự. Nó đă tập họp và duy tŕ một số lớn bọn
lưu manh nhưng có
tài trong
các lănh vực khoa
học và tôn giáo, và đặc biệt chỉ dẫn
cho họ dựng lên
những tuyên truyền giả dối tại hải
ngoại,
để thổi phồng lên các tiến bộ về nhân quyền của
ĐCSTQ. Nó bịa đặt một loạt những nhân
quyền ngụy biện như “quyền sinh tồn”; hoặc là "quyền ấm no" (lư lẽ biện hộ như
sau: Khi người ta đói khát th́ không thể có quyền lên tiếng hay sao? Ngay cả khi
những người đói khát không thể lên tiếng
được, vậy những người ăn uống
no đủ cũng không thể lên tiếng cho những người
đói khát hay sao?) ĐCSTQ vẫn cố gắng lừa gạt người dân Trung Quốc và các nước dân
chủ Tây phương bằng cách chơi các ván bài về
nhân quyền, ngay cả c̣n
trắng trợn tuyên bố
rằng “hiện nay là thời kỳ tốt nhất về nhân quyền
của Trung Quốc”.
Nghị quyết số 35 của Hiến pháp Trung Quốc
có qui định
rằng:
người dân của nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc được tự do phát biểu,
xuất bản, nhóm họp, hội đoàn, biểu t́nh, và diễn hành. Đảng cộng
sản Trung Quốc(ĐCSTQ)
chỉ đơn giản chơi chữ mà thôi. Dưới sự
thống trị của ĐCSTQ, vô số công dân bị
tước đoạt quyền tự do tín ngưỡng,
ngôn luận, xuất bản, hội họp và biện
hộ cho quyền lợi.
ĐCSTQ c̣n ra lệnh rằng việc đệ
đơn thỉnh cầu lên cấp trên của một
số đoàn
thể nhất định
cũng bị xem là bất hợp pháp. Hơn một
lần vào năm 2004, một số tập thể thường dân đệ đơn xin diễn hành tại Bắc Kinh. Thay v́ cho phép, chính
phủ lại bắt giam những người đệ
đơn. Chính sách “một quốc gia, hai chế
độ”
áp dụng cho Hồng Kông được phê chuẩn
bởi hiến pháp của ĐCSTQ đều là tṛ lừa bịp. ĐCSTQ nói rằng sẽ không có thay đổi
tại Hồng Kông trong ṿng 50 năm, tuy nhiên nó đă cố gắng đổi hai chế
độ thành một
bằng cách cố t́nh thông qua một luật độc
tài tà ác, là Nghị Quyết số 23, chỉ vỏn vẹn trong ṿng 5 năm kể từ
khi Hồng Kông được trả về
cho Trung Quốc [7].
Một mánh khóe mới thật nham hiểm
được tận dụng bởi
Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ)
là giả vờ “nới lỏng tự do ngôn luận” để che lấp
sự theo dơi và khống chế chặt chẽ
đại quy mô của nó.
Người Trung Quốc ngày nay có vẻ nói lên ư nghĩ của ḿnh một cách tự do hơn, bên cạnh đó, mạng
điện báo Internet
khiến cho tin tức
lan rộng nhanh hơn. Như thế ĐCSTQ tuyên bố
rằng bây giờ nó cho phép tự do ngôn luận; có rất nhiều người tin theo
điều này. Nhưng đây chỉ là một biểu hiện giả
tạo. Không phải Đảng Cộng Sản
trở nên tốt lành, mà là Đảng không thể ngăn
chặn sự phát triển xă hội và tiến bộ kỹ thuật.
Chúng ta hăy xem xét ĐCSTQ đang đóng vai tṛ ǵ trong
khía cạnh của
mạng Internet: nó phong tỏa các website, gạn lọc tin tức, theo dơi
pḥng chat (nói chuyện qua
máy điện toán),
kiểm soát email
(thư điện toán),
và rồi buộc tội những người sử
dụng mạng điện báo. Mỗi một điều Đảng
cộng sản làm đều hoàn
toàn ngược lại với trào
lưu tiến bộ.
Ngày nay, với sự giúp đỡ của các nhà tư
bản mà
không quan tâm đến nhân quyền và lương tri, cảnh sát ĐCSTQ đă được
trang bị những máy móc kỹ thuật cao để có thể theo dơi, từ bên trong
xe tuần tra, mọi hành
động của những người dùng Internet. Khi chúng
ta nh́n vào sự suy đồi của ĐCSTQ —phạm vào những
hành vi tà ác giữa
thanh thiên bạch nhật— trong bối cảnh của phong
trào toàn cầu
hướng về tự do dân chủ, làm thế
nào mà chúng ta có thể
mong rằng nó có tiến bộ trong nhân quyền? Chính
ĐCSTQ đă nói tất cả: “Nó nới lỏng bên ngoài nhưng
thắt chặt bên trong”. Bản tính lưu manh của Đảng
cộng sản không bao giờ
thay đổi.
Để tạo nên một h́nh ảnh tốt đẹp cho chính ḿnh
tại Ủy Ban Liên Hiệp Quốc về nhân quyền,
năm 2004 ĐCSTQ đă dàn cảnh một loạt các hoạt động
trừng phạt nghiêm khắc những người vi
phạm nhân quyền. Tuy
nhiên, sự kiện này chỉ là dành riêng cho
con mắt
quan sát của những
người ngoại quốc mà thôi, và không có thực chất. Bởi v́ kẻ
chà đạp nhân quyền lớn nhất tại Trung Quốc là
chính Đảng
cộng sản Trung Quốc, và cựu Tổng bí thư Giang Trạch Dân, cựu bí
thư Ủy ban Pháp Lư
và Chính Trị Lỗ Cán, bộ trưởng Chu
Vĩnh Khang và phó bộ trưởng Lưu Kinh của
Bộ Công An. Sự tŕnh diễn của chúng về
trừng phạt những kẻ vi phạm nhân quyền cũng giống như
một tên ăn cắp đang ḥ hét: “ Bớ
người ta, bắt thằng
ăn cắp!”.
Tương tự
như hành động của một tên hiếp dâm hàng
loạt là,
khi c̣n có thể trốn khỏi tầm quan sát của công
chúng, hắn thông thường tấn công 10 cô gái trong một ngày. Sau
đó, có quá đông người chung quanh nên hắn chỉ tấn công một cô gái
trước đám đông.
Có thể nói
rằng tên hiếp dâm đă thay đổi tốt hơn hay
sao? Từ việc
hắn tấn công sau lưng cho đến việc
cưỡng hiếp trước công chúng chỉ chứng
tỏ rằng tên vô lại này thật c̣n đê tiện và trơ
tráo hơn trước.
Bản tính của tên hiếp dâm không thay đổi chút nào cả. Những ǵ thay đổi
chỉ là hoàn cảnh đă
không c̣n dễ dàng để cho hắn thực hành tội ác nữa.
Đảng cộng sản Trung Quốc(ĐCSTQ) cũng chỉ giống như tên
lưu manh hiếp dâm hàng
loạt đó. Bản tánh độc tài của ĐCSTQ và bản
năng sợ hăi
về mất quyền
lực đă quyết định rằng nó sẽ không tôn trọng
quyền lợi của người dân. Nhân lực, nguồn vật chất, và các nguồn tài chính dùng để ngụy trang nhân quyền của ĐCSTQ
đă vượt quá xa các
nỗ lực của nó trong việc cải thiện thật sự về nhân
quyền. Đảng cộng sản lưu manh tàn
phá, giết chóc bừa băi ở
khắp nơi trên đất Trung Hoa,
điều này là
nỗi bất hạnh
lớn nhất cho người dân Trung Quốc.
Để bảo vệ lợi ích
riêng của những tập
đoàn có
đặc quyền,
một mặt Đảng
cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) xé
tan ngụy trang
cũ của chúng, hoàn toàn bỏ bê công nhân, nông dân, và dân chúng, mặt khác lại gia tăng các thủ đoạn lưu manh và dối
trá càng ngày càng nhiều đến nỗi tiếng
xấu về vi phạm
nhân quyền của ĐCSTQ đă bị phơi bày ra
cộng đồng quốc tế. ĐCSTQ đă sử
dụng những danh từ quen thuộc như là “cai trị trong ṿng luật
pháp ”, “thị
trường”, “v́ dân”, và “cải cách”,v.v. để làm lẫn lộn tâm trí người ta. Bản tánh tà ác lưu manh của Đảng
cộng sản Trung Quốc không hề thay đổi dù có tự khoác lên ḿnh “bộ Âu phục”
[tức là cái vỏ văn minh]. H́nh ảnh như vậy chỉ càng đánh lạc
hướng người dân hơn là khi ĐCSTQ khoác “bộ y
phục của Mao” [theo lư thuyết của Mao]. Trong tác phẩm Trại gia súc
của George Orwell
(xuất bản năm 1945), các con heo học cách
đứng và đi bằng hai chân. Tài nghệ mới có này đă tạo bộ mặt
mới cho con
heo, nhưng nó không thay đổi được bản
tính heo của nó.
Tạo ra luật lệ và qui định mà vi phạm Hiến pháp
Trung Quốc
Luật pháp và những qui định trái với Hiến pháp đă được truyền xuống
tới các nhân viên thực thi pháp luật tại nhiều
tầng cấp. Họ
lấy lư do như
“căn cứ vào
pháp luật” mà
cản trở những nỗ lực của dân
chúng trong việc
chấm dứt cuộc
đàn áp, lấy lại tự do và duy hộ nhân quyền.
Giải quyết vấn đề phi-chính
trị bằng các thủ
đoạn chính trị
Một vấn đề xă hội b́nh thường
sẽ được thổi phồng lên ngang hàng với
“tranh đoạt quần chúng với Đảng”,
hoặc “mất Đảng th́ mất nước”, hay “nổi loạn”, “lực lượng thù
địch”. Đảng
cộng sản Trung Quốc cố t́nh chính trị hóa các vấn đề phi chính trị
để có thể sử dụng các cuộc vận
động chính trị như một công cụ tuyên
truyền để kích động ḷng thù hận của
dân chúng.
Vấn
đề chính trị được giải quyết
bằng các thủ đoạn phi-chính
trị
Mánh khóe mới nhất của Đảng
cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) dùng để tấn công các công dân ủng
hộ dân chủ và các
phần tử trí thức có
tư tưởng độc lập, là lập ra “những
cái bẫy” để
cầm tù những người này. Những “cái bẫy”
như vậy bao gồm tạo ra các tội
trạng dân sự giả tạo như là tội măi dâm và trốn thuế. Kẻ tấn công cố
giữ không làm ồn để
tránh sự chỉ trích của các nhóm bên ngoài. Những
tội này, đủ để hủy hoại thanh danh
của người bị tố cáo, và cũng được dùng để làm
nhục nạn nhân trước công chúng.
Nếu như
phải nói rằng
bản tính
lưu manh của Đảng cộng
sản Trung Quốc
có biến đổi, th́ đó là nó đổi thành càng ngày càng đáng sỉ nhục hơn và càng không có nhân tính.
Hăy tưởng tượng một tên tội phạm
dâm loạn đột nhập vào nhà và cưỡng hiếp một cô con gái. Trong phiên
ṭa xử, tên tội
phạm này tự bào chữa cho ḿnh rằng hắn không
giết nạn nhân; hắn chỉ cưỡng hiếp cô ta thôi. Bởi v́ giết
người mang tội nặng hơn tội hiếp dâm, hắn tranh căi
rằng hắn vô tội và nên được phóng thích ngay lập tức. Hắn nói rằng người
ta cũng nên khen ngợi hắn v́ hắn chỉ có
cưỡng hiếp
nhưng không giết người.
Lư luận này nghe rất tức cười. Tuy nhiên, cái lô-gic của Đảng
cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) biện hộ cho cuộc Tàn Sát Thiên Môn vào
ngày 4/6/1989 là giống hệt như của tên tội
phạm trên. ĐCSTQ tranh căi rằng “đàn áp sinh viên”
đă tránh được “nội loạn” tiềm tàng
tại Trung Quốc. V́ vậy để ngăn chặn “nội
loạn”, nên "bức hại sinh viên" đă được cho là có lư.
“Cưỡng
hiếp hay giết người, trường hợp nào
tốt hơn?”. Tên tội phạm hỏi quan ṭa một câu hỏi như
vậy trong phiên xử chứng
tỏ rằng tên tội
phạm vô liêm sỉ đến cỡ nào. Tương
tự như vậy, trong vấn đề Tàn Sát
ở Thiên An Môn,
Đảng cộng sản Trung Quốc và bọn tay sai đă không kiểm
điểm xem
bọn chúng đă phạm
tội giết người hay không, thay vào đó chúng đă chất vấn xă hội cái nào tốt hơn, chọn
“đàn áp sinh viên"
hoặc là chọn "nội loạn mà có thể dẫn đến nội
chiến?”
Đảng cộng sản Trung Quốc(ĐCSTQ) khống chế tất cả guồng máy quốc gia và công cụ tuyên truyền. Nói một cách khác, một
tỉ ba người dân Trung Quốc đang bị ĐCSTQ
giữ làm con tin. Với một tỉ ba con tin nằm trong
tay, ĐCSTQ luôn tranh căi bằng “lư luận con tin” của nó, rằng nếu nó không
đàn áp một nhóm người này, th́ toàn bộ đất nước có
thể xuất hiện nội loạn. Sử dụng điều này như một lư
do để
ĐCSTQ có thể thẳng tay đàn áp bất cứ cá nhân
hay tập thể nào, và sự đàn áp của nó luôn luôn được
cho là có lư. Đưa ra những tranh căi dối
trá và lập luận
sai lạc như thế, vậy thử hỏi có tên vô
lại nào trên thế giới mà c̣n lưu manh quá cỡ hơn là Đảng cộng
sản Trung Quốc hay
không?
Nhiều người dân cảm thấy rằng hiện tại
họ đang hưởng nhiều “tự do” hơn
trước, nên họ đặt hy vọng vào triển vọng cải thiện của
Đảng cộng sản Trung Quốc(ĐCSTQ). Trên thực tế, mức độ
tự do mà người dân được “ban tặng” c̣n
tùy thuộc vào cảm nhận nguy cơ của ĐCSTQ. ĐCSTQ làm bất cứ điều ǵ để
duy tŕ những lợi ích tập đoàn của Đảng, bao gồm cả ban
bố cái gọi là 'dân chủ, tự do và nhân quyền' cho dân chúng.
Tuy nhiên, dưới sự thống trị của Đảng Cộng Sản, cái gọi là “tự do” của nó, không được bảo vệ bởi bất cứ
pháp luật nào cả. Cái “tự do” này hoàn toàn chỉ là một công
cụ để lừa
dối và khống chế người dân trong khuynh hướng quốc tế hướng
tới dân chủ. Nh́n từ căn bản, cái “tự do” này là một xung đột
không thể ḥa giải được với chế
độ độc tài của Đảng
cộng sản. Một khi xung
đột đó vượt quá mức chịu đựng
của Đảng cộng sản, th́ nó có thể lấy lại tất cả
“tự do” ngay lập tức. Trong lịch sử của ĐCSTQ, đă
có nhiều thời kỳ mà thảo luận và phát biểu
cũng tương đối được tự do, sau mỗi thời kỳ đó là một
thời kỳ bị khống chế chặt chẽ. Lặp
đi lặp lại, lật lọng tráo trở như thế được tiến hành
trong suốt lịch sử của ĐCSTQ,
đă biểu hiện
cho loại
bản tính lưu manh của Đảng
cộng sản Trung Quốc.
Vào thời đại của Internet hiện nay, nếu bạn viếng thăm
website chính thức Tân Hoa hay tờ Nhân Dân
Nhật Báo trên mạng điện báo của Đảng cộng
sản Trung Quốc(ĐCSTQ), bạn sẽ thấy
quả thật có vài báo cáo
chứa đựng những tin tức xấu về Trung Quốc. Thứ
nhất là v́ hiện nay
có quá nhiều tin xấu lan truyền mau
lẹ ở Trung Quốc,
các cơ quan thông tin phải tường thuật các câu
chuyện này để giữ uy tín. Thứ hai, quan điểm của
các bài tường thuật như thế phải trùng hợp với lợi
ích của Đảng
cộng sản, chẳng
hạn như “phê b́nh nhỏ đem đến lợi ích
lớn”. Các bài tường
thuật phải luôn
luôn hướng nguyên nhân tin xấu vào một cá nhân nhất định nào đó, không
dính dấp ǵ đến Đảng, trong khi
đó phải vuốt
chân Đảng như là "không
dựa vào lănh đạo
của Đảng là không được". ĐCSTQ khống chế
khéo léo những ǵ cần
phải tường thuật, những ǵ không nên nói, tường thuật bao nhiêu, và có nên để cơ
quan thông
tin trong Trung Quốc hoặc là các
tổ chức thông
tin ở hải
ngoại,
dưới sự khống chế của ĐCSTQ, đọc bài tường thuật hay không.
Đảng cộng sản Trung Quốc(ĐCSTQ) rất giỏi trong việc biến
chuyển tin xấu thành
những ǵ mà có thể đạt được kết
quả mong muốn để chiếm ḷng dân. Nhiều thanh
niên tại Trung Quốc đại lục cảm thấy rằng ĐCSTQ hiện
nay cho ra mức
độ tự do ngôn luận khá tốt, và bởi thế
mang đầy
hy vọng và cám ơn ĐCSTQ. Họ đều là những vật
hy sinh cho các chiến lược “đă tinh xảo” của những công cụ thông tin lưu manh do chính quyền
của Đảng cộng sản khống chế. Hơn thế nữa, bằng cách tạo
nên một t́nh thế hỗn loạn trong xă
hội Trung Quốc
rồi đem tường
thuật trên một số cơ
quan thông tin, ĐCSTQ có
thể thuyết phục người dân rằng chỉ có
dựa vào quyền lực mạnh mẽ của ĐCSTQ th́ mới có thể khống
chế đại
cuộc, và v́ vậy có
thể ép buộc dân chúng phải chấp hành theo luật
lệ của nó.
Bởi thế, chúng ta không nên lầm tưởng
rằng Đảng cộng sản tự nó đă thay đổi, ngay cả khi chúng ta thấy
được một vài dấu hiệu cải thiện trong
vấn đề nhân quyền của ĐCSTQ. Trong lịch
sử, khi Đảng cộng sản tranh đấu để lật
đổ chính phủ Quốc Dân Đảng, nó đă
giả vờ đấu tranh cho nền dân chủ của đất nước. Bản tính lưu manh
của Đảng cộng sản quyết định rằng mọi hứa hẹn của
ĐCSTQ là không thể tin cậy được.
“Giải phóng Đài Loan” và “thống nhất Đài Loan”
là các khẩu hiệu tuyên truyền của Đảng
cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) trong vài chục
năm qua. Với
lời tuyên truyền này, ĐCSTQ đóng vai
của những
nhân sĩ yêu
nước. ĐCSTQ có thực sự quan tâm đến chủ
quyền lănh thổ
quốc gia không? Không một
chút nào. Đài Loan chẳng qua chỉ là một sự đấu tranh giữa Đảng
Cộng Sản và Quốc Dân
Đảng mà được chế tạo
thành vấn đề lưu lại của lịch sử, và được Đảng Cộng Sản dùng để đả
kíck đối
phương và để
lấy ḷng dân chúng.
Trong những ngày đầu khi Đảng
cộng sản Trung Quốc thành lập hội “Trung Hoa
Sô Viết” dưới thời cầm quyền của Quốc
Dân Đảng – điều 14 trong bản Hiến Pháp của nó có ghi rằng “bất cứ dân tộc
thiểu số nào,
hay thậm chí bất cứ tỉnh nào của Trung Quốc đều có thể tuyên
bố độc lập”. Để thỏa hiệp
với Liên Bang Sô Viết, khẩu hiệu của Đảng
cộng sản Trung Quốc lúc bấy giờ là “Bảo vệ Sô Viết”. Trong cuộc kháng chiến chống Nhật, mục tiêu
chính
của Đảng cộng sản là nắm lấy cơ hội để
bành trướng thế lực của nó hơn là đấu tranh với quân xâm
lăng Nhật Bản. Năm 1945, Hồng Quân Sô Viết tràn vào miền
Đông Bắc Trung Quốc và đă phạm vào
tội cướp bóc, giết người và hăm hiếp, nhưng ĐCSTQ không hề
thốt lên một lời phản đối. Tương
tự như vậy, khi Liên bang Sô Viết
ủng hộ Ngoại Mông Cổ được độc lập
khỏi Trung Quốc, một lần nữa ĐCSTQ lại
im lặng.
Cuối năm 1999, ĐCSTQ và Nga đă kư bản hiệp
ước Giám định Biên giới Nga-Trung, trong đó
ĐCSTQ chấp nhận tất cả
các điều
khoản bất b́nh
đẳng mà triều đại nhà Thanh và Nga đă kư kết hơn 100
năm trước, và đă bán hơn một triệu
kilômét vuông đất cho Nga, một vùng đất rộng
hơn Đài Loan gấp mấy chục lần. Trong năm
2004, Đảng cộng sản Trung Quốc và Nga đă kư bản thỏa ước "Thỏa hiệp bổ túc miền Đông
biên giới", và theo báo
cáo th́ lại mất một nửa chủ quyền
của đảo Hắc Hạt Tử trong tỉnh
Hắc Long Giang cho Nga lần nữa .
Về các vấn đề biên giới khác như
chủ quyền về quần đảo Nam Sa và
đảo Điếu Ngư, ĐCSTQ không quan tâm chút nào v́ các
vấn đề này
không ảnh hưởng đến quyền
lực thống
trị của Đảng.
ĐCSTQ đă rầm rộ hô hào “Thống nhất Đài loan”, chẳng
qua chỉ là tạo
ra màn khói
để che
đậy, và là thủ
đoạn lưu manh
để kích động ḷng yêu nước mù quáng, và giữ cho dân chúng không chú ư tới các mâu thuẫn
nội bộ.
Chính phủ cần phải luôn luôn được giám sát. Trong những
nước dân chủ, sự tách biệt giữa quyền
lực với tự do ngôn luận và báo chí là một cơ
chế tốt để giám sát. Các tín ngưỡng
tôn giáo cung cấp thêm
sự tự kiềm chế về mặt đạo
đức.
Nhưng Đảng Cộng
Sản lại
tuyên truyền các lư luận vô Thần,
v́ vậy nó
không có bản tính thánh thiện để ràng
buộc các hành vi của nó
về mặt đạo đức. Thực hành của Đảng cộng
sản lại là chuyên chế độc tài, v́ vậy không có ràng buộc
của luật pháp
về mặt chính trị. Kết quả là Đảng cộng
sản hoàn toàn không sợ
Trời phạt và không bị
luật pháp kiềm hăm khi
nó hành động với bản tính lưu manh và bạo ngược. Theo
Đảng cộng sản Trung Quốc(ĐCSTQ) th́ ai giám sát Đảng? “Tự ḿnh!” Đây là khẩu hiệu mà ĐCSTQ đă
dùng để lừa dối người dân trong nhiều chục năm qua. Từ việc “tự ḿnh”
phê b́nh trong thời gian
đầu,
đến “tự ḿnh” giám sát đốc thúc, rồi “tự ḿnh" hoàn hảo sự lănh đạo của Đảng, và gần đây nhất “tự ḿnh" đề cao năng
lực chấp
chính của Đảng.
Đảng cộng sản Trung Quốc nhấn mạnh cái năng lực
lớn mạnh của Đảng cộng sản gọi là “tự ḿnh cải thiện". ĐCSTQ không chỉ nói
thôi, mà
là thật sự hành
động, như là thành lập “Ủy Ban Kiểm Tra
Kỷ Luật Trung Ương” và “Văn Pḥng Kháng Cáo” và
những cái tương tự như vậy. Các tổ chức
này chỉ là “những b́nh hoa” đẹp
đẽ nhưng vô
dụng để mê hoặc và đánh lạc hướng dân
chúng.
Không có kiềm chế về mặt pháp luật và
đạo đức, “tự ḿnh cải thiện” của Đảng
cộng sản, theo truyền
thống người Trung Quốc đă nói
th́ chính là "tự tâm sinh ma". Đây chẳng qua chỉ là cái cớ mà ĐCSTQ dùng
để tránh sự giám sát, đốc thúc từ bên ngoài, từ chối
cởi mở tự do báo chí
và tự do đảng phái chính trị. Bọn chính trị
lưu manh dùng chiêu
bài này để
lừa bịp dân chúng, và đồng thời để bảo vệ "
tính hợp pháp"
của ĐCSTQ và lợi ích của nhóm cầm quyền.
Giở tṛ lưu
manh chính trị
là đặc
trưng của ĐCSTQ. “Nhân dân Dân chủ
chuyên chính”, “Chế
độ tập trung
dân chủ” , “Chính trị
hiệp thương” v.v… đều là các tṛ
chơi lường gạt người ta. Ngoại trừ “chuyên chính” (tức là “độc tài,
là chính quyền chuyên về...”), c̣n tất cả đều là dối trá.
Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) luôn tuyên bố là đă dẫn dắt nhân
dân Trung Quốc đánh bại quân xâm lược Nhật
Bản. Tuy nhiên, rất
nhiều tài
liệu lịch sử vạch rơ rằng ĐCSTQ đă cố t́nh tránh giao
tranh trong cuộc chiến kháng Nhật. ĐCSTQ chỉ cản trở
nỗ lực chống Nhật bằng cách lợi dụng sự
tham gia chiến tranh
của Quốc Dân Đảng để phát triển lực lượng của chính
nó.
Chỉ có hai trận chiến chính mà ĐCSTQ đă tham
dự là “Chiến Dịch B́nh H́nh Quan” và “Đại
Chiến Bách Đoàn”. Trong “Chiến Dịch B́nh H́nh Quan”,
ĐCSTQ không phải là lănh đạo hoặc quân chủ
lực mà
đă tham dự hay chỉ huy trận chiến này. Thay vào đó, quân của ĐCSTQ chỉ phục kích các đơn
vị quân nhu quân dụng của lính Nhật mà thôi. C̣n trận thứ hai,
người ta tin rằng
nội bộ ĐCSTQ mà tham dự vào cuộc chiến này là vi phạm chính sách chiến lược
của Trung Ương Đảng. Sau hai trận chiến
này, Mao và quân
đội ĐCSTQ của hắn không tham dự vào một trận chiến quan trọng nào cả,
cũng không tạo ra những anh hùng nào trong cuộc
chiến Trung – Nhật như là Đổng Tồn Thụy
trong cuộc chiến với Quốc Dân Đảng vào
năm 1948,
và Hoàng Kế Quan trong chiến tranh Triều Tiên. Chỉ có
một số ít chỉ huy cao cấp của ĐCSTQ đă chết trên
chiến địa chống Nhật. Cho đến nay,
ĐCSTQ c̣n không thể báo cáo ngay cả con số thiệt hại trong chiến
tranh kháng
Nhật, cũng không một ai có thể t́m được
những đài tưởng niệm anh hùng liệt sĩ
của ĐCSTQ trong cuộc
chiến kháng
Nhật ở trên mảnh đất Trung Quốc rộng lớn.
Cùng lúc đó ĐCSTQ đă thành lập “Chính phủ vùng
biên giới” tại các tỉnh Thiểm Tây, Cam Túc, Ninh
Hạ rất xa chiến địa. Dùng ngôn
ngữ ngày nay để nói, th́ chính là ĐCSTQ đă thi hành “một quốc gia hai chế
độ”, hoặc “hai
xứ Trung Quốc”
ở bên trong
nước Trung Hoa. Mặc dầu các sĩ quan chỉ huy của
ĐCSTQ không thiếu nhiệt t́nh chống lại quân
Nhật, nhưng các quan chức cao cấp của ĐCSTQ đă không chân
thật trong cuộc chiến đấu để
kháng Nhật, mà trái
lại đă dùng phương sách bảo tồn thực
lực và lợi dụng chiến tranh
này như một cơ hội để tăng
thêm sức mạnh. Khi
Trung Quốc và Nhật Bản nối lại quan hệ
ngoại giao vào năm 1972, Mao Trạch Đông đă
tiết lộ sự thật với Thủ tướng
Nhật Bản, Kakuei Tanaka, rằng ĐCSTQ phải cám ơn Nhật
Bản, bởi v́ nếu không có cuộc chiến kháng Nhật, ĐCSTQ không thể nào nắm
được quyền lực ở Trung Quốc.
Đây chính là sự thật về lời tuyên bố giả dối của ĐCSTQ
rằng nó đă lănh đạo nhân dân Trung Quốc kiên tŕ
tám năm kháng chiến chống Nhật và cuối cùng dành
thắng lợi.
Hơn nửa thế kỷ sau, với sự kiện ngày 11 tháng 9, bọn khủng bố tấn công trên đất Mỹ, nỗ
lực chống khủng bố đă trở thành một
phong trào của
thế giới. ĐCSTQ
một lần nữa, lại giở tṛ quỷ kế lưu manh,
tương tự như
kiểu giả vờ kháng Nhật. Giả vờ chống khủng bố, ĐCSTQ đă gán
nhăn hiệu "bọn khủng bố" cho nhiều người theo
tôn giáo tín ngưỡng,
những nhân sĩ bất đồng chính kiến, các nhóm
liên quan đến các xung đột lănh thổ hay sắc
tộc. Trong chiêu bài chống khủng bố, ĐCSTQ đă phát
động nhiều cuộc đàn áp bạo lực.
Ngày 27 tháng 9 năm 2004, Tân Hoa Xă đă trích từ báo
Tân Kinh rằng Bắc Kinh có thể thành lập
văn pḥng chống
khủng bố đầu tiên trong tất cả các
tỉnh và thành phố tại Trung Quốc. Ngay cả một số phương tiện
truyền thông ủng hộ ĐCSTQ tại hải
ngoại c̣n đưa tin trên hàng đầu: “
Văn Pḥng 610 tham gia
chống khủng bố”, (‘Văn Pḥng 610’ là một tổ
chức mạng lưới
được thành lập một cách bất hợp pháp mà sử dụng các cơ quan chính phủ
để đặc
biệt khủng bố những học viên Pháp Luân Công),
tuyên bố rằng văn pḥng chống khủng bố
này sẽ tập trung
tấn công “các tổ chức khủng bố”, bao gồm có
Pháp Luân Công.
ĐCSTQ dán nhăn hiệu “bọn khủng bố” lên những người
không có vũ khí trong tay, không đánh trả lại khi
bị đánh đập, không nói lại khi bị lăng mạ, và thỉnh nguyện ôn ḥa cho quyền
được giữ niềm tin của họ. Lợi
dụng trào lưu chung là chống khủng bố, ĐCSTQ
đă điều động “lực lượng chống
khủng bố đặc biệt” của nó, được trang bị đến
tận răng, để thi hành cuộc trấn áp nhanh chóng nhóm
người ḥa b́nh không tự vệ này (những học viên Pháp Luân Công).
Hơn nữa, ĐCSTQ đă lợi dụng lư do chống
khủng bố để tránh dư luận và sự lên án
của quốc tế về cuộc khủng bố Pháp
Luân Công của nó. Những thủ pháp
lưu manh
được dùng ngày nay không khác ǵ những thứ
đă được
ĐCSTQ dùng trong cuộc chiến kháng Nhật, và là thủ pháp đáng sỉ
nhục rất nhiều đối
với một vấn đề nghiêm trọng
là các nỗ lực
chống khủng bố trên thế giới.
Đảng
Cộng Sản Trung Quốc không tin vào các học thuyết của chính nó, nhưng vẫn ép buộc người khác phải tin vào
chúng. Đây là một thủ pháp lưu manh nhất mà tà giáo Đảng
Cộng
Sản đă dùng. Nó biết rằng những tà thuyết của nó là giả, và chủ nghĩa xă hội là
giả, và đă bị phá sản. Đảng Cộng Sản Trung
Quốc,
chính nó đều không tin vào những tà thuyết này, nhưng vẫn
cưỡng ép nhân
dân phải tin vào chúng, không tin là không
được, không tin là phải bị đàn áp. Điều sai lầm nhất
và vô liêm sỉ là Đảng
Cộng
Sản
c̣n viết
loại lư
luận lừa
gạt của
nó vào
trong Hiến pháp,
làm như là đại
cương lập
quốc vậy.
Trong cuộc sống thực tế có một hiện tượng thú vị,
chính là nhiều quan chức cao cấp bị mất chức trong
cuộc đấu
tranh chính trị ở quan trường của Trung Quốc bởi v́ thối nát tham nhũng, nhưng đây lại chính là những người đă nói
nhấn mạnh đặc biệt về “sự liêm khiết phụng sự công chúng” trong các buổi họp công cộng, trong
khi đó chúng ăn hối lộ, tham nhũng và có nhiều
hoạt động đồi bại ở
đằng sau. Nhiều người
mà gọi là “công
bộc của nhân dân”
đă sa ngă kiểu này, trong đó có Lư Gia Đ́nh cựu tỉnh
trưởng Vân Nam, Lưu Phương Nhân bí thư
tỉnh ủy Quí Châu, Tŕnh Duy Cao bí thư tỉnh ủy Hà
Bắc, Điền Phượng Sơn bộ trưởng
Bộ đất đai và tài nguyên, và Vương Hoài Trung
phó tỉnh trưởng tỉnh An huy. Tuy nhiên nếu quư
vị xem xét các bài diễn văn của chúng, quí vị
sẽ thấy rằng, không có ngoại lệ, chúng
đều ủng hộ các chiến dịch chống tham
nhũng,
và lặp đi lặp lại thúc dục cấp
dưới phải hành xử thật thà, ngay
cả khi chính
bọn chúng
đang biển thủ công
quỹ và nhận hối lộ.
Mặc dầu Đảng Cộng Sản Trung
Quốc đă nêu lên những gương
mẫu điển h́nh,
và thường kêu gọi những người có lư tưởng và hăng
say gia nhập
Đảng Cộng Sản để nâng cao bộ
mặt của Đảng,
nhưng người ta đều thấy rơ chuẩn mực đạo đức
của Trung Quốc bại
hoại đến mức
đáng sợ như thế nào. Tại v́ sao các tuyên truyền về “văn minh tinh thần” của
Đảng Cộng
Sản
Trung Quốc lại
không có
tác dụng?
Kỳ thực, các lănh tụ của Đảng Cộng Sản khi dẫn dắt quần chúng,
thường nói những thứ như “chất lượng đạo đức
của chủ nghĩa
cộng sản”, hay “phục vụ v́ nhân dân”, tất cả đều không khác
biệt mấy với những lời giả dối. Sự không đồng nhất giữa hành động và lời nói của các lănh tụ
Đảng Cộng
Sản có
thể được truy nguyên tới người cha sáng lập của chúng
là Karl Marx. Marx
có một đứa con hoang. Lenin bị bệnh giang mai từ gái điếm. Stalin bị kiện v́ cưỡng ép một ca sĩ làm t́nh. Mao Trạch Đông đắm sâu trong
t́nh dục; Giang
Trạch Dân dâm loạn; Ceausescu, lănh tụ
Đảng Cộng Sản Romania, làm cho cả gia
tộc giàu có một cách
bẩn thỉu; Castro, lănh tụ Đảng Cộng Sản Cuba, vơ vét hàng trăm triệu đô la gửi nhà băng
nước ngoài; Kim Il Song, con quỉ giết người
của Đảng Cộng Sản Bắc Hàn, cùng với con cái sống trong
trụy lạc và phung phí.
Trong cuộc sống hàng ngày, dân chúng Trung Quốc chán ghét
các buổi học tập chính trị rỗng tuếch. Càng
ngày họ
càng làm qua loa cho xong
việc đối
với những
thứ như "giảng
chính trị", bởi v́ mọi người đều biết
tất cả chúng đều là những tṛ lừa bịp.
Nhưng không một ai, từ người phát biểu
lẫn thính giả trong các buổi họp chính trị
này, dám nói thẳng về các điều dối trá đó. Người ta gọi
hiện tượng này là “giả vờ nhận là thật” để thông qua . Các khẩu hiệu nổi tiếng của Đảng Cộng Sản Trung
Quốc
như “Tam đại biểu” của vài năm trước, rồi
đến “đề
cao năng
lực chấp
chính”
sau này, và
“ba trái tim”
hiện nay—“sưởi
ấm ḷng dân, ổn
định ḷng dân và được ḷng dân”—tất cả đều
là lời nói
thừa.
Có Đảng cầm
quyền nào mà không đại diện cho
quyền lợi của nhân dân? Đảng cầm quyền nào mà
không quan tâm đến năng lực nắm chính quyền? Đảng cầm quyền nào mà không
cố gắng lấy ḷng dân?
Bất cứ Đảng nào mà không quan tâm đến
những vấn đề đó sẽ sớm bị
đào thải khỏi chính trường. Nhưng ĐCSTQ
lại xem các khẩu hiệu thừa đó như
các lư luận tinh diệu không thể đo lường và đ̣i hỏi
người dân trên
toàn quốc phải học chúng.
Khi sự giả vờ để
“đi qua cầu” đă dần
dần đóng khuôn vào lối suy nghĩ và thói quen của hơn tỷ người dân, và đă trở thành một
loại hiện tượng “văn hóa Đảng”, th́ sẽ dẫn tới
một hiện tượng mà toàn bộ xă hội trở thành “giả tạo, và không có”: không
có ḷng thành thật
và không có niềm tin tưởng lẫn nhau, toàn bộ xă hội đó sẽ bị nguy cơ. Tại sao Đảng
Cộng
Sản
Trung
Quốc phải làm như thế?
Trong quá khứ là v́ “chủ nghĩa”, nhưng hiện nay là v́ “lợi ích” của nó. Đảng viên cộng
sản biết
rơ là giả vờ
để “đi qua cầu”, nhưng họ vẫn phải làm. Nếu Đảng cộng
sản Trung Quốc
không làm những thứ này, người ta sẽ không có cảm giác sợ bọn lưu manh ác bá. Nó không thể bắt người
ta ủng hộ theo
nó và sợ nó.
Trong cuốn sách “ Luận về sự tu
dưỡng của
đảng viên Cộng Sản”, Lưu Thiếu Kỳ [8]
đặc biệt nhấn mạnh sự cần thiết
về “lợi ích cá nhân
của đảng viên phải phục tùng vô
điều kiện trước lợi ích của Đảng”. Trong lịch sử, các đảng viên ĐCSTQ không thiếu những người
có chính
nghĩa mà quan tâm đến quốc gia và dân tộc, cũng không thiếu những quan
chức liêm chính thực sự muốn phục vụ nhân dân. Nhưng trong
guồng máy tư lợi của Đảng Cộng Sản, những người này không thể
tồn tại. Dưới áp lực không ngừng
để cho
“nhân tính phục tùng đảng tính”, họ thường là
không thể tiếp tục, bị cách chức, hay tệ
hơn nữa là trở nên tham nhũng.
Người
dân Trung Quốc từng trải qua kinh nghiệm cá nhân, đă cảm nhận sâu sắc chế
độ tàn bạo lưu manh của Đảng Cộng Sản Trung
Quốc,
và đă h́nh thành nỗi
khiếp sợ bạo lực của ĐCSTQ. Do
đó người ta không dám bảo vệ chính nghĩa, và cũng không tin vào công lư. Đầu tiên
họ khuất phục cường quyền của Đảng, dần dần họ trở thành
khúc gỗ bất
nhân, hay không để
ư về những ǵ
không liên quan đến bản thân họ. Ngay cả lối
suy xét của họ
cũng đă bị đóng khuôn để phục tùng cường quyền. Đây là kết quả của
bản tính
lưu manh trong xă hội đen của ĐCSTQ.
Đảng Cộng
Sản
Trung
Quốc
(ĐCSTQ) sử dụng
những khẩu hiệu của “chủ nghĩa ái quốc” và “chủ nghĩa dân tộc” để
kích động dân chúng. Các khẩu hiệu này không những là các cờ hiệu to lớn của ĐCSTQ, mà c̣n là những hiệu lệnh được phát ra thường xuyên, và là những chiến lược đă
qua thời gian thử nghiệm. Khi đọc những tuyên truyền về chủ
nghĩa dân tộc của tờ Nhân Dân Nhật Báo
hải ngoại,
những Hoa kiều hải ngoại mà nhiều chục
năm không dám trở về nước để sinh
sống, có thể vẫn
c̣n yêu nước so với những người dân tại quốc
nội. C̣n những người dân Trung Quốc,
những người không dám và cũng không
thể nói “không” với bất cứ chính sách nào của
Đảng Cộng Sản, dưới sự xúi bẩy
của các nhóm tổ chức của Đảng, lại dám gây giông băo cho Đại sứ quán và Ṭa
lănh sự Hoa kỳ tại Trung Quốc,
mà ném trứng, đá,
đốt xe và cờ Hoa Kỳ, tất cả sự kiện
này đều
xảy ra dưới ngọn cờ “yêu nước”.
Mỗi khi Đảng Cộng Sản gặp vấn
đề lớn lao cần người dân
trên toàn quốc phải tuân
theo, nó lại sử dụng chiêu bài “yêu nước” và “dân tộc” để
khẩn cấp động viên dân chúng. Trong tất cả
các trường hợp, bao gồm cả những vấn
đề liên quan tới Đài Loan, Hồng Kông, Pháp Luân Công, va chạm
giữa phi cơ gián điệp Mỹ và
phi cơ chiến đấu của Trung Quốc—ĐCSTQ đều sử dụng
phương pháp tổng hợp giữa sự sợ hăi cao độ và tẩy năo tập thể, để làm cho người dân trên toàn quốc có trạng thái tâm trí giống như đang
ở trong chiến tranh.
Phương pháp này tương tự như cách
của phát xít Đức
đă dùng.
Bằng cách ngăn chặn tất cả tin tức khác,
sự tẩy năo của ĐCSTQ đă thành công vô
cùng. Mặc dù người dân Trung Quốc không thích ĐCSTQ nhưng
họ suy nghĩ theo cách méo mó đă được ĐCSTQ
tiêm nhiễm
vào. Trong chiến tranh Mỹ – Irag,
ví dụ như, nhiều
người bị kích động khi theo dơi sự phân tích
chủ quan hàng ngày trên
đài
truyền h́nh CCTV [9]. Họ cảm thấy thù
ghét, mong báo thù, và
có tâm lư muốn chiến
đấu,
nhưng
đồng thời lại nguyền rủa
một cuộc chiến
tranh khác.
Một trong những câu nói mà Đảng Cộng Sản
Trung Quốc (ĐCSTQ) thường dùng để đe dọa dân chúng là “mất Đảng
th́ mất
nước”, v́ vậy đặt Đảng đằng
trước quốc
gia; phương châm lập quốc của ĐCSTQ là “không có Đảng Cộng Sản th́ không có tân Trung Quốc”. Từ thủa sơ sinh,
người dân
đă
được giáo dục là phải “nghe theo lời Đảng”, và “ làm nhi đồng ngoan của Đảng”.
Họ hát
bài ca tụng
Đảng: “Tôi xem Đảng như mẹ tôi”,
hoặc “Ôi, Đảng,
mẹ yêu của tôi”, “Ơn Đảng sâu hơn biển
cả”, “Yêu cha mẹ không bằng yêu Đảng” [10]. Họ sẽ “hăng say chiến
đấu bất cứ nơi nào Đảng chỉ
định”. Khi chính phủ cứu trợ thảm hoạ,
dân chúng phải “cám ơn Đảng và chính
phủ”—trước tiên là Đảng, sau mới tới chính phủ. Khẩu
hiệu quân đội là “Đảng chỉ huy ṇng súng”.
Ngay cả khi các nhà chuyên gia vẽ mẫu đồng
phục cho các quan ṭa, họ gắn bốn khuy vàng trên
cổ áo đồng phục. Những khuy này từ trên
xuống dưới để tượng trưng cho
Đảng, nhân dân, luật pháp và tổ quốc. Điều
này chứng tỏ
rằng mặc dù anh là quan
ṭa, Đảng sẽ vĩnh viễn được
đặt trên luật pháp, quốc gia, và nhân dân.
'Đảng',
tại Trung Quốc,
đă trở thành lời xưng hô chí cao đến độ không ǵ
cao hơn, và “quốc
gia” trở thành phụ
thuộc của Đảng. Quốc gia v́ Đảng mà tồn
tại, và Đảng trở
thành hóa thân của nhân dân, là tượng trưng của quốc
gia. Yêu Đảng, yêu
người lănh đạo Đảng, và yêu nước bị
trộn lẫn vào nhau, đó là nguyên nhân căn
bản tại sao chủ
nghĩa ái quốc
ở Trung Quốc đă bị bóp méo.
Dưới ảnh hưởng lặng lẽ nhưng liên tục không ngừng của tuyên truyền
và giáo dục của
ĐCSTQ, rất nhiều người,
dù là Đảng viên hay
không, đă bắt đầu lẫn lộn Đảng với quốc gia, cho dù họ có ư thức được
hay không. Họ đă cho rằng “lợi ích của Đảng” là cao hơn tất cả, hoặc lặng lẽ cho
rằng “lợi ích
của Đảng
chính là lợi ích của nhân dân, lợi
ích của quốc gia”. Từ đó mà tập đoàn
lưu manh của ĐCSTQ
đă tạo nên một môi trường để
cho ĐCSTQ phản bội lợi ích
của quốc gia.
Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đă tạo rất nhiều sai lầm to lớn trong lịch sử. Nhưng
thông qua việc "sửa sai và rửa sạch oan
uổng", nó lại đem
những sai lầm này quy về một số cá nhân hoặc các tập thể nào đó. Điều này không những làm cho nạn nhân mang ơn Đảng sâu
sắc,
mà c̣n cho phép Đảng hoàn toàn trốn tránh bất cứ trách nhiệm của các hành vi tội phạm nào do nó gây ra. ĐCSTQ tự tuyên bố là không những "không sợ phạm lỗi, mà c̣n giỏi
sửa lỗi” [11], và điều này đă trở thành ma
dược kỳ diệu của ĐCSTQ mà nhờ đó
nó đă thoát tội từng lần, từng lần
một. V́
vậy, ĐCSTQ luôn thừa
nhận là Đảng của “vĩ đại, quang vinh và chính xác”.
Có thể có một ngày, ĐCSTQ sẽ quyết
định 'sửa sai' trong
vụ Tàn Sát Thiên An Môn và phục hồi danh tiếng của Pháp Luân Công. Nhưng những
điều này chỉ là các thủ đoạn lưu manh mà ĐCSTQ
sử dụng để gắng sức kéo dài đời sống hấp hối của nó. ĐCSTQ
sẽ không bao giờ
có dũng khí để kiểm
điểm lại chính ḿnh, và để thanh toán các hành vi tội phạm của chính ḿnh.
Sự kiện giả tạo “Tự thiêu tại Thiên An Môn” do
tập đoàn tà giáo
Đảng Cộng
Sản
Trung
Quốc
(ĐCSTQ) dàn cảnh có thể xem là lời dối trá của
ĐCSTQ trong thế kỷ. Để đàn áp Pháp Luân Công, chính
quyền đă bại hoại đến độ dụ
dỗ năm người dân giả làm học viên Pháp Luân
Công tŕnh diễn màn tự thiêu giả tạo tại
quảng trường Thiên An Môn. Thông đồng với
những kẻ mưu
đồ bất lương này, năm người tham dự đă vô ư kư vào bản án tử h́nh của
chính họ,
và kết quả họ, hoặc đă bị đánh chết trên
hiện trường hoặc bị giết sau đó. Khi
xem cuốn phim video tự thiêu quay chậm
lại, do chính
đài CCTV phát hành, có thể thấy rơ rằng Lưu Xuân
Linh, một trong số người tự thiêu, bị
cảnh sát đánh chết ngay tại chỗ. Các lỗi
khác đóng
trong phim bao gồm cách ngồi của ông Vương
Tiến Đông, chai nhựa (được coi là đă
chứa đầy xăng) c̣n nguyên vẹn giữa hai
đầu gối của ông sau khi ngọn lửa
đă được
dập tắt, cuộc đối thoại giữa một
bác sĩ và nạn nhân trẻ nhất, Lưu Tư Ảnh,
và sự hiện diện của các phóng viên quay phim
đă sẵn sàng để quay
phim hiện trường. Những sự kiện này, và hơn nữa, là chứng cớ đủ để chứng minh rằng biến
cố Tự
Thiêu chính là một sự dối trá, được thiết kế một cách
hiểm độc bởi chế độ Giang Trạch
Dân, để vu
khống Pháp Luân Công.
[12]
Một
đảng phái chính trị, như Đảng Cộng
Sản Trung Quốc,
sử dụng những thủ pháp tàn nhẫn và đê tiện vô cùng trong chiến dịch tuyên bố của nó
để diệt sạch Pháp Luân Công. Nó đă chiếm lấy
những tài nguyên, tài chánh của quốc gia tích lũy được
trong 20 năm cải cách và mở cửa. Nó đă huy
động Đảng, chính phủ, quân đội,
cảnh sát, gián điệp, các nhà ngoại giao nước
ngoài, và nhiều tổ chức chính phủ và phi chính
phủ khác. Nó đă thao túng các hệ thống truyền tin trên toàn cầu, thi hành ngăn chặn tin
tức chặt chẽ với
sự theo dơi
của cá nhân và kỹ thuật
cao. Nó đă làm tất cả những điều này
để đàn áp một nhóm người ḥa b́nh tu luyện
theo Pháp Luân Công, một môn khí công cổ truyền Trung
Quốc mà tu luyện thân mạng, tâm và đặc tính đạo
đức dựa theo nguyên lư Chân Thiện
Nhẫn. Sự đàn áp tàn khốc như vậy lên những người vô
tội chỉ v́ niềm tin của họ
đă phơi bày
triệt để
bản tính lưu
manh của ĐCSTQ.
Trong lịch sử chưa từng có bọn lưu manh côn
đồ nào mà dối
trá một cách âm thầm và rộng khắp như Giang
Trạch Dân và ĐCSTQ. Chúng dùng mọi loại
mọi kiểu dối trá,
mỗi h́nh thức được thiết
kế để nhắm
vào và thao túng các
loại các kiểu
quan niệm người ta đang nắm giữ, để người ta có thể dễ dàng bị lừa bịp
mà tin vào những
lời dối trá, và Đảng có thể kích động ḷng căm ghét Pháp
Luân Công. Bạn tin vào khoa học chăng? ĐCSTQ bảo
rằng Pháp Luân Công mê tín dị đoan. Bạn ghét chính
trị chăng? ĐCSTQ nói rằng Pháp Luân Công làm chính
trị. Bạn ganh ghét người khác làm giàu ở trong hoặc ngoài
nước chăng?
ĐCSTQ bảo Pháp Luân Công đang thu góp của cải.
Bạn phản đối các tổ chức đoàn thể chăng? ĐCSTQ nói rằng
Pháp Luân Công là một đoàn thể có tổ chức
chặt chẽ. Bạn chán ngán sự tôn sùng cá nhân đă kéo dài trong nhiều
thập niên ở Trung Quốc chăng? ĐCSTQ nói rằng
Pháp Luân Công đề cao sự khống chế tinh thần. Bạn là
người yêu nước chăng? ĐCSTQ nói rằng Pháp Luân Công
chống lại Trung Hoa. Chẳng phải bạn sợ rối loạn hay sao? ĐCSTQ bảo rằng Pháp Luân Công phá hoại sự
ổn định. Bạn nói rằng Pháp Luân Công đă giảng giữ vững Chân Thiện Nhẫn rồi sao? ĐCSTQ nói rằng Pháp Luân Công không chân
thật, không thiện lành, không nhẫn nhục. Nó thậm
chí c̣n bóp méo lô-gic, tuyên bố rằng ḷng Thiện có thể sinh ra ḷng ham
muốn sát sanh.
Bạn có
tin tưởng
chính phủ không đặt điều dối trá
nhiều như vậy
sao? ĐCSTQ có thể
tạo ra những dối trá c̣n to tát và gây chấn
động hơn nữa,
từ sự việc tự chiến
đấu đến
tự sát rồi tự thiêu, từ giết họ hàng đến
giết người hàng loạt—quá nhiều điều
dối trá đến nỗi bạn cảm thấy không
thể không tin chúng. Bạn thông cảm với Pháp Luân Công chăng? ĐCSTQ
liền đem các thành
quả chính trị của
bạn cùng
với sự đàn áp Pháp Luân Công, để giáng chức
bạn, đuổi việc, hoặc cắt tiền
thưởng của bạn nếu có học viên Pháp Luân Công tại khu vực
trách nhiệm của bạn đi thỉnh nguyện ở
Bắc kinh. V́ thế, bạn và Pháp Luân Công bị ép buộc phải trở thành thù
địch.
Đảng Cộng
Sản
Trung
Quốc
(ĐCSTQ) đă bắt
cóc vô số học viên Pháp Luân Công, và đem họ đi học tập tẩy năo để
cố gắng ép
buộc họ phải
từ bỏ niềm tin chân chánh của họ, phản đối Pháp Luân Công, và phải hứa là không tập luyện
nữa. ĐCSTQ dùng nhiều cách tà ác khác nhau để
thuyết phục họ, bao gồm cả việc sử
dụng họ hàng thân quyến, việc làm và “giáo dục”
để tạo áp lực lên họ, hành hạ họ bằng nhiều cách tra tấn dă man, và ngay cả trừng phạt
luôn cả các thành viên trong gia đ́nh và đồng
nghiệp của họ. Các học viên Pháp Luân Công
mà đă bị tẩy
năo thành công, sau đó lại được dùng để hành hạ và tẩy năo những học
viên khác. ĐCSTQ lưu
manh, muốn con người biến thành ma quỷ, và ép buộc họ đi
theo con đường
đen tối tới tận cuối đời.
VII. Chủ nghĩa xă hội lưu
manh mà “Đặc sắc Trung Quốc”
Ngôn từ “Đặc sắc Trung Quốc” được dùng để che
đậy các tội ác của Đảng
Cộng
Sản
Trung
Quốc
(ĐCSTQ). ĐCSTQ xưa nay luôn tuyên bố rằng sự thành công trong cuộc cách mạng ở
Trung Quốc là nhờ vào “ sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mácxít-Lêninnít với thực tiễn cụ thể của cách
mạng Trung Quốc”. Lạm dụng ngôn từ “tính đặc
thù”
là một thủ pháp xuyên suốt của ĐCSTQ, dùng
để hỗ trợ
những lư
luận cho các chính sách
lưu manh và lật lọng vô thường của nó.
Dưới chiêu bài “đặc sắc Trung Quốc”mà
có tính cách lưu manh này,
những ǵ mà Đảng Cộng Sản Trung Quốc
(ĐCSTQ) hoàn
thành chỉ là hoang
đường và đáng
tức cười .
Mục đích cách mạng của Đảng
Cộng
Sản là thực hiện chế
độ công
hữu đối với
các tư liệu sản xuất (tức là quốc hữu hoá), và nó đă lừa dối nhiều
người trẻ tuổi gia nhập tổ chức
Đảng v́ lư tưởng 'cộng
sản
đại đồng', trong đó có
không ít người c̣n
ngay cả phản
bội gia đ́nh để dâng tài sản của họ cho Đảng. Nhưng 83 năm sau khi
ĐCSTQ bắt đầu
thành lập, giai cấp tư bản lại quay trở lại, mà chẳng qua
[giai cấp tư bản] lần này được
biến thành một
phần của chính Đảng Cộng
Sản,
những kẻ mà ban
đầu giương cao biểu ngữ “đại đồng”.
Hiện nay, trong các con cái và họ hàng của các người lănh đạo ĐCSTQ, nhiều người là
thành phần tư bản
mới và
giàu có, không ít đảng viên Đảng Cộng Sản đang gắng hết nỗ lực để tham gia vào nhóm mới phất
lên này. Đảng
Cộng
Sản đă tiêu diệt địa chủ và các
nhà tư sản dưới danh nghĩa cách mạng và cướp
đoạt tài sản của họ. Giờ đây, “hoàng tộc”
mới của Đảng thậm chí c̣n giàu hơn nhờ biển
thủ và tham nhũng. Những người đă theo
Đảng từ đầu cuộc cách mạng bây
giờ thở dài “Nếu tôi biết t́nh trạng ngày nay th́
tôi đă không theo nó rồi”. Sau nhiều thập niên đấu tranh
đẫm máu và đổ
mồ hôi, nay họ mới nh́n thấy,
họ chẳng qua
chỉ là hiến dâng tất cả tài sản của
cải của ông cha để lại và cả cuộc
đời của chính
ḿnh cho tà giáo Đảng Cộng Sản.
Đảng Cộng Sản nói về nền tảng kinh tế quyết định kiến trúc
thượng tầng
[13]; trên thực tế, đó là nền tảng kinh tế quan liêu của các viên chức tham nhũng
của Đảng quyết định “kiến trúc
thượng tầng
cao áp” - một kiến trúc thượng
tầng dựa trên các áp
lực cao để tồn tại. Do đó
chính sách 'đàn áp nhân dân' đă trở thành đường
lối cơ bản
của Đảng Cộng Sản.
Một đặc tính lưu manh khác của
Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ)
biểu hiện trong việc thay đổi nội
hàm của bất
cứ khái niệm
nào trong văn hóa
của nhân loại,
rồi
sau đó dùng chính những khái niệm đă bị thay đổi này để phê phán và khống
chế dân chúng. Khái niệm
“Đảng” là một ví
dụ như vậy. Kỳ thực, xưa nay hiện tượng 'kết Đảng' trong xă
hội nhân loại đều có, xảy ra khắp cả
trong và ngoài nước. Nhưng chỉ có Đảng Cộng Sản
là hoàn toàn vượt quá
phạm vi tập đoàn của Đảng. Nếu bạn gia nhập
Đảng Cộng Sản rồi, nó phải khống chế tất cả mọi khía cạnh cuộc
đời của bạn, bao gồm nhân tính, sự sinh tồn và sinh hoạt riêng tư. Bạn để cho Đảng
Cộng Sản cầm
quyền, nó phải khống chế xă hội, chính phủ và
tất cả các
cơ chế quốc
gia. Nó quyết
định mọi vấn
đề từ việc quan trọng,
lớn lao như ai
sẽ là Chủ Tịch Nhà Nước, hay ai làm Bộ trưởng Quốc Pḥng, hay lập ra những qui định
luật lệ ǵ đó, đến những việc nhỏ
như ai có
thể sống ở
đâu, và ai
kết hôn, sinh
bao nhiêu con cái, mà những phương pháp khống chế này đă phát triển đến
độ không c̣n ǵ để thay đổi thêm nữa.
Trong danh nghĩa của phương
pháp biện chứng, ĐCSTQ đă phá hủy hoàn toàn các
phương thức suy
nghĩ viên dung của
triết học, khả năng suy nghĩ
biện luận, và tinh thần t́m ṭi học hỏi. Trong khi Đảng Công Sản nói về “dựa theo công lao mà phân phối”, th́ quá tŕnh “cho phép một số người hưởng giàu có trước” đă hoàn thành được, lại là “dựa theo quyền lực mà phân
phối”. Đảng
Cộng
Sản sử dụng sự ngụy trang “hết
ḷng phục vụ nhân dân” để lừa dối
những ai đeo đuổi lư tưởng này, sau đó tiến
hành tẩy năo và khống
chế toàn diện,
dần dần biến họ thành các công cụ dễ sai
khiến để “hết ḷng phục vụ Đảng”, và họ không dám lên tiếng cho nhân dân
nữa.
Dùng nguyên tắc mà đánh giá lợi ích của Đảng lên trên tất cả mọi thứ, Đảng
Cộng
Sản
Trung
Quốc
(ĐCSTQ) đă bóp méo xă
hội Trung Quốc bằng các phương
thức của một tà
giáo, mà
tạo ra
một loại người khác
thật sự trong xă hội nhân loại. Loại
người khác
này không giống với bất cứ các quốc
gia, các chính đảng, hay tập thể nào. Nguyên tắc của nó là vô nguyên tắc, không có sự
chân thành nào đáng nói
đằng sau nụ cười của nó.
Chẳng qua là người lương thiện không
hiểu được ĐCSTQ, bởi v́ người ta dựa theo tiêu chuẩn đạo đức của
vũ trụ mà suy đoán ĐCSTQ, họ không thể tưởng
tượng được rằng lại có những
thứ tà ác,
lưu manh như vậy,
mà đại diện
cho một quốc gia. Viện cớ “đặc sắc Trung Quốc” Đảng
Cộng
Sản đă tiến thân giữa các dân
tộc trên thế giới.
“Đặc
sắc Trung Quốc” là chữ viết tắt cho “Đặc sắc lưu manh của Đảng Cộng
Sản
Trung
Quốc”.
Chủ nghĩa tư bản khập
khiễng của Trung Quốc đă biến thành “chủ
nghĩa xă hội đặc sắc Trung
Quốc”; “thất
nghiệp” đổi thành “chờ việc làm” đặc
sắc Trung Quốc;
“bị sa thải” đổi thành “không phận sự”
đặc sắc Trung Quốc; “nghèo đói” biến thành “giai đoạn bắt đầu
của chủ nghĩa xă hội” đặc
sắc Trung Quốc;
và nhân quyền, tự do ngôn luận, và tự do tín
ngưỡng đă biến thành "quyền sinh tồn"
đặc sắc Trung Quốc.
Từ đầu thập niên 1990, Trung Quốc bắt
đầu lưu hành một câu nói, rằng “Tôi là tên lưu manh, tôi không sợ ai cả”. Điều
này là quả
Ác dưới sự trị
quốc lưu manh
qua nhiều thập niên của Đảng Cộng Sản
Trung Quốc - là 'lưu manh hóa quốc gia'. Đi kèm với nền kinh tế thịnh vượng
giả tạo của Trung Quốc, là nền đạo đức suy
đồi tuột dốc toàn diện trong mọi lănh vực của xă hội.
Các đại biểu quốc hội Trung Quốc luôn
luôn nói về
sự “thành thật và tin
tưởng” trong Quốc Hội Nhân Dân Trung Quốc. Trong
các kỳ
thi vào đại học, học sinh bắt buộc phải viết về
đề mục “
sự thành thật và tin
tưởng”. Điều này cho thấy sự thiếu hụt
về thành thật và tin
tưởng, cùng
với
sự tụt dốc đạo đức đă trở
thành một nguy cơ không
nh́n thấy được
nhưng rộng khắp trong xă hội Trung Quốc. Tham
nhũng thối nát, biển thủ, sản phẩm giả,
dối trá, ḷng người xấu xa bỉ
ổi và thuần
phong mỹ tục xuống dốc mau lẹ là chuyện thường; không có một tín
nhiệm cơ bản
nào giữa người với người nữa.
Đối với những người
đă tuyên bố hài ḷng
về tiêu chuẩn đời sống được nâng
cao, thử hỏi mối quan tâm nhất của họ
chẳng phải là sự ổn định trong
cuộc sống hay sao?
Mà cái ǵ là yếu tố trọng yếu nhất trong sự ổn định xă hội? Đó chính là đạo đức.
Một xă hội mà đạo đức xuống dốc
không thể nào đem đến an ninh và bảo
đảm.
Tới ngày nay, ĐCSTQ đă đàn
áp xong hầu như
tất cả các tôn giáo truyền thống và giải
thể hệ thống giá trị truyền thống. Con
đường lưu manh mà nhờ đó ĐCSTQ chiếm
được của cải và lừa dối người dân đă có một ảnh hưởng
dần dần lan xuống toàn xă hội, làm thối nát toàn
bộ xă hội và dẫn dắt nhân dân của nó theo
hướng lưu manh hóa. Cai trị bằng những
thủ đoạn lưu manh, đương nhiên trên
thực chất, ĐCSTQ
cần một xă hội lưu manh để làm
môi trường cho nó
tồn tại. Đó là tại sao ĐCSTQ dùng mọi
thứ để lôi kéo người dân xuống tầng
cấp của nó, cố gắng biến nhân dân Trung
Quốc thành các loại lưu manh lớn nhỏ
với tŕnh độ khác nhau. Bản
tính lưu manh
của Đảng Cộng Sản
Trung
Quốc đang chôn vùi căn cơ đạo đức mà
gắn bó với dân tộc Trung
Hoa như
thế.
“Sông núi dễ đổi, bản tính khó thay”[14]. Lịch sử đă chứng minh rằng
cứ mỗi lần
Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) nới lỏng gông cùm và xiềng xích,
đều tuyệt không có
ư định vứt
bỏ xiềng xích đi. Sau trận Đại Đói
Kém vào đầu thập niên 1960, ĐCSTQ đă theo
chương tŕnh "Tam tự Nhất Bao" (Ba Tự Do và Một Giao Ước) [15] để nhằm khôi phục sự sản xuất của nông thôn, nhưng không có ư định thay
đổi thân phận “nông nô” (tá điền) của nông dân Trung Quốc. Cuộc
“cải cách kinh tế” và “tự do hóa” vào thập niên 1980
đă không ảnh hưởng chút nào tới việc
ĐCSTQ nâng con dao đồ tể lên để giết
chính nhân dân của nó
vào năm 1989. Trong tương lai, ĐCSTQ cũng
tuyệt đối không v́
thay đổi bộ mặt của chúng, mà thay đổi các bản tính lưu manh.
Nếu như có người nghĩ rằng sự
việc đă qua th́ để cho nó qua đi, và nay t́nh h́nh đă thay đổi, và
rằng Đảng Cộng Sản ngày nay không như Đảng
Cộng
Sản thời trước nữa, mà thỏa
măn với giả tượng trước mắt; ngay cả c̣n tin tưởng một cách sai lầm rằng Đảng
Cộng Sản đă cải
thiện, hoặc đang trong sự cải tổ, hoặc có ư định
muốn sửa đổi, và từ đó mà không ngừng quên lăng sự việc quá khứ. Tất cả những
điều này chỉ cấp cơ hội cho tập đoàn lưu manh của Đảng Cộng Sản Trung
Quốc
được tiếp
tục sống sót để làm hại nhân loại.
Tất cả
mọi nỗ lực
của Đảng
Cộng Sản chính
là muốn người ta "quên mất" sự việc quá khứ; mà mọi giăy dụa của nhân dân, trên nguyên
tắc là
muốn nỗ
lực "ghi nhớ"
những bất công họ đă phải chịu trong bàn tay
của Đảng Cộng Sản.
Trên thực tế, lịch sử của Đảng Cộng Sản
là một phần tách rời khỏi lịch sử kư ức của người dân, là một lịch sử mà trong đó con cháu
hậu thế không biết
được lịch sử chân tướng của các ông cha đời trước, một lịch sử
trải qua gian nan mà
trong đó hằng trăm triệu công dân phải sinh
sống trong mâu thuẫn giữa
sự nguyền rủa cái quá khứ đầy máu của
Đảng Cộng
Sản với sự kỳ vọng cái hiện
thực tương lai
to tát của Đảng
Cộng
Sản.
Khi tà linh của chủ nghĩa Cộng Sản
xuống tới thế giới nhân loại, Đảng Cộng Sản
sau khi thành lập chỗ đứng trong nhân gian, thông qua cuộc khởi nghĩa lưu
manh và cách
mạng của bọn côn
đồ mà
chiếm đoạt
chính quyền. Những ǵ nó đă làm, chính là thông qua chính quyền bạo ngược
đầy máu tanh, mà thiết lập và duy tŕ một
xă hội dưới
h́nh thức chuyên chế của “Đảng phụ thể” ( là Đảng bị tà linh nhập
vào điều
khiển). Bằng cách
sử dụng cái gọi là tinh thần “đấu tranh” mà phản Tự Nhiên, phản Trời Đất, phản Nhân Tính và phản Vũ Trụ,
Đảng Cộng
Sản tiêu hủy lương tri và ư niệm thiện lành
của con người, hơn nữa cũng tiêu hủy cả quan niệm đạo đức
và văn minh truyền
thống của nhân loại. Nó đă sử dụng tàn sát đẫm
máu và cưỡng ép người ta tẩy năo để chế
tạo một
tà giáo Cộng Sản, nhất thống thiên hạ,
mà trong đó tất cả người dân đều điên cuồng.
Trong suốt lịch sử của Đảng
Cộng
Sản, có các thời kỳ điên
cuồng ngang ngược
khi khủng bố đỏ
đạt đến cao điểm, cũng
có các thời khắc
tơi tả thảm hại, phải trốn vào
đồng hoang v́ gần
bị diệt vong.
Mỗi một lần, Đảng Cộng Sản
lại phải dựa vào việc tận dụng các tṛ lưu manh của nó để vượt
qua cơn nguy cơ,
nhưng chỉ để hướng tới một
thời kỳ điên
cuồng ngang ngược khác, mà tiếp tục lừa dối mọi
người.
Một khi mọi người đều có
thể nhận thức được bản tính lưu manh
của Đảng Cộng Sản, và lúc không v́ những giả tượng của nó làm mê
mẩn và che lấp
nữa, th́ chính là lúc kết thúc cuối cùng
của bản tính
cực kỳ lưu manh
của Đảng Cộng Sản Trung Quốc.
******************
So với năm ngàn năm lịch sử
của Trung Quốc, 55
năm Trung Quốc dưới ách thống trị của Đảng
Cộng Sản Trung Quốc chỉ là những sự
việc thoáng qua như mũi tên bay. Trước khi Đảng
Cộng
Sản
Trung
Quốc xuất hiện, Trung Quốc đă
sáng tạo
ra một nền
văn minh huy hoàng nhất trong lịch sử nhân loại;
sẵn dịp Trung Quốc có hoạn nạn trong
nước đến từ bên ngoài, Đảng Cộng Sản Trung
Quốc đă thừa cơ mà ngồi lên nắm chính quyền, mang
đến kiếp nạn to lớn cho dân tộc Trung Hoa. Loại kiếp nạn này, không chỉ vỏn vẹn cướp đi hàng chục triệu
sinh mạng, phá tan tành giá trị của vô số gia đ́nh, hủy hoại
nhiều nguồn tài nguyên sinh thái mà sự sống c̣n
của dân tộc Trung Hoa phụ thuộc vào, càng nghiêm trọng hơn
nữa, là nền
tảng đạo đức và truyền thống văn
hóa quư giá của dân tộc Trung Hoa,
cũng bị phá hoại tới tận cùng.
Tương lai của Trung Quốc sẽ ra sao? Trung
Quốc sẽ đi về hướng nào? Những vấn
đề quan
trọng như thế
thật phức tạp mà lại quá khó
để bàn thảo trong một vài câu. Tuy nhiên, có một điểm chắc chắn rơ ràng là: nếu không coi trọng sự xây dựng đạo đức của dân
tộc Trung Hoa, không
coi trọng sự tân
lập mối quan hệ
hài ḥa, sáng tỏ giữa người với
sự Tự Nhiên, và
với Trời
Đất; và nếu không có tín ngưỡng và văn hóa cho sự chung sống hài ḥa giữa người với người, th́ dân
tộc Trung Hoa sẽ không thể có một ngày
mai tươi sáng.
Qua bao nhiêu thập niên để tẩy năo và đàn áp, Đảng
Cộng
Sản
Trung
Quốc đă đem lối suy nghĩ của nó
cùng với tiêu chuẩn về Thiện và Ác của nó mà ép vào trong tầng
thâm sâu của sinh mạng người dân Trung Quốc. Điều này đă dẫn người
ta đến chỗ tiếp
nhận nó trên một mức độ nhất
định, và
c̣n nhận thức những lư luận sai lệch giống
như nó, và trở thành
một phần của nó, v́ vậy đă giúp Đảng Cộng Sản Trung
Quốc
được tồn tại trong nền tảng ư
thức hệ của họ.
Trừ sạch
tất cả các tà thuyết đă truyền bá của Đảng Cộng Sản Trung
Quốc trong đời sống của chúng ta, nh́n rơ bản chất đầy
đủ thập ác
tột cùng của Đảng Cộng Sản Trung
Quốc, khôi phục lại nhân tính và lương tri của
chúng ta - đây là
bước thứ nhất cần thiết trên con đường phải
đi để vượt qua một cách thuận lợi sang một xă hội không có Đảng Cộng
Sản.
Tiến bước trên con đường này có thể
đều đặn và b́nh an hay không, th́ c̣n tùy thuộc vào những thay đổi trong tâm
hồn của mỗi
một người Trung Quốc. Tuy rằng Đảng Cộng Sản
Trung
Quốc bề ngoài đă nắm hết tất cả các tài
nguyên và bộ máy bạo lực của quốc gia, nhưng
nếu mỗi một người trong chúng ta đều tin vào sức mạnh của
chân lư và ǵn giữ vững chắc đạo đức
của chúng ta, th́ tà linh
Đảng Cộng
Sản
Trung
Quốc sẽ mất đi chỗ trú
thân, tất cả các tài
nguyên có được, có thể lập tức trở về trong tay của chính nghĩa, đó cũng chính là thời khắc tái sinh của
dân tộc chúng
ta.
Không có Đảng Cộng
Sản Trung Quốc,
mới
có thể có
một Trung Quốc mới.
Không có Đảng Cộng
Sản Trung Quốc,
Trung Quốc mới có hy vọng.
Không có Đảng Cộng Sản Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc với chính nghĩa thiện lương sẽ xây lại sự huy hoàng
của lịch sử.
Chú Thích
[1]
Theo tư tưởng Nho giáo truyền thống, hoàng
đế hoặc vua cai trị theo ư trời, và để
có được cái quyền đó, đạo đức
của họ phải xứng với trách nhiệm tối
cao đó. Một tư tưởng tương tự có
thể thấy từ tác phẩm Mạnh Tử. Trong
đoạn “Ai trao quyền lực của vua?” khi được
hỏi ai trao đất đai và quyền cai quản cho vua
Thuấn, Mạnh Tử đă nói “Đó là Trời”. Quan điểm về nguồn
gốc sức mạnh thần thánh có thể thấy trong
truyền thống Cơ Đốc giáo phương Tây. Ví
dụ trong Romans 13:1 của tác phẩm Kinh Thánh (phiên bản
King James) người ta có thể t́m thấy: “Hăy để
mọi linh hồn lệ thuộc vào các quyền lực
tối cao. V́ không có quyền lực nào ngoài quyền
lực của Chúa: các quyền lực đó là
được Chúa ban cho”.
[2]
Một trung tâm là nói đến phát triển kinh
tế, hai cơ bản là: duy tŕ bốn nguyên tắc
cơ bản (con đường xă hội chủ nghĩa,
chuyên chính vô sản, sự lănh đạo của ĐCSTQ,
tư tưởng Mao và Mác xít Lê nin nít), và tiếp tục
các chính sách cải cách và mở cửa.
[3]
Dữ liệu từ một báo cáo của Tân Hoa Xă vào ngày 4
tháng 3 năm 2004.
[4]
Mẫu là một đơn vị diện tích
được sử dụng ở Trung Quốc. Một
mẫu bằng 6,666.666 mét vuông.
[5]
Phú dưỡng: gia tăng chất hữu cơ và
khoáng vật trong nước, có thể thúc đẩy
sự sinh trưởng của thực vật nhưng
lại giảm lượng oxygen ḥa tan trong nước và thường dẫn
đến sự tuyệt chủng của các sinh vật
khác. Dữ liệu từ một báo cáo của Tân Hoa Xă vào
ngày 29 tháng 2 năm 2004.
[6]
“Nguyên tắc ba không” đă xảy ra trong quá khứ.
Vào năm 1979, Đặng Tiểu B́nh đă đề
xuất “Nguyên tắc ba không” để khuyến khích nhân
dân nói lên tâm tư của họ: Không gán nhăn hiệu, không tấn công, và không xem xét lỗi
lầm. Điều này cũng nhắc người dân nhớ tới sự khuyến khích
tương tự của Mao đối với giới trí
thức vào những năm 1950, cái khuyến khích mà đi sau
đó là khủng bố tàn nhẫn những người dám
nói lên suy nghĩ của ḿnh. Ngày nay, “Ba không” mới
được đề xuất nói đến “Phát
triển không bàn luận, tiến bộ không đấu
tranh, và tiến triển không thỏa măn những thứ
đă đạt được”.
[7]
Nghị định 23 được chính phủ
Hồng Kông đưa ra vào năm 2002 dưới áp
lực từ Bắc Kinh.
Nghị định này đă cho thấy một sự xói
ṃn nghiêm trọng về tự do và nhân quyền ở
Hồng Kông, phá hoại ngầm chính sách “một đất
nước, hai hệ thống”.
[8]
Lưu Thiếu Kỳ, Chủ tịch nước
Trung Quốc giữa những năm 1959 đến 1968,
được coi như là người kế vị
của Mao Trạch Đông. Trong Cách Mạng Văn Hóa
(1966-1976), ông ta đă bị đàn áp như là kẻ
phản bội, gián điệp và nổi loạn. Ông
chết vào năm 1969 sau khi bị hành hạ nghiêm trọng dưới
h́nh phạt tù của ĐCSTQ.
[9] CCTV (
Đài Truyền H́nh Trung Ương Trung Quốc) nằm
dưới sự sở hữu và điều hành trực
tiếp của chính phủ trung ương. Nó là mạng
truyền thông chính ở lục địa Trung Quốc.
[10] Tất cả
những đoạn được trích này là nhan
đề của các bài hát được viết và hát
dưới thời của Mao trong những năm 1960 và
đầu những năm 1970.
[11] Mao đă
từng nói rằng 'chúng ta sợ phạm lỗi, nhưng
chúng ta quan tâm tới việc sửa chúng'.
[12] Về phân tích
chi tiết của phim video tự thiêu, xin hăy tham khảo
trang web sau:
http://daiphapinfo.net/dsp.php?id=8,
http://clearwisdom.net/emh/special_column/self-immolation.html,
http://faluninfo.net/tiananmen/immolation.asp.
[13] Kiến trúc
thượng tầng trong ngữ cảnh của lư
thuyết xă hội Mác-xít nói tới quan hệ giữa tính
chủ quan của con người và nền tảng vật
chất của xă hội.
[14] Đây là
một tục ngữ Trung Quốc thừa nhận sự
vĩnh cửu của bản tính con người.
[15] Các chính sách
cải cách kinh tế, được biết tới
như là chương tŕnh “Ba Tự Do và Một Giao
Ước” (Tam Tự Nhất Bao) được
đề xuất bởi Lưu Thiếu Kỳ, sau đó
là Chủ Tịch nhà nước của Trung Quốc.
Chương tŕnh đă quy định đồ án về
đất đai dành cho sử dụng riêng tư, thị
trường tự do, các doanh nghiệp chỉ có trách
nhiệm đối với lăi và lỗ của nó, và
việc cố định chỉ tiêu sản lượng
trên cơ sở gia đ́nh.
Copyright © 2004
DAJIYUAN.COM, báo Hoa Ngữ DAJIYUAN