|
|
|
Bảng
hiệu tuyên truyền cho chiến dịch "Phê b́nh Lâm
Bưu và Khổng Tử" (AFP/Getty Images) |
Văn hóa là linh
hồn của một dân tộc. Đối với nhân
loại yếu tố tinh thần này cũng quan trọng
ngang như yếu tố vật chất là giống ṇi và
đất đai.
Lịch sử
nền văn minh của một dân tộc là lịch
sử của các sự phát triển văn hóa. Sự phá
hủy hoàn toàn văn hóa của một dân tộc dẫn
tới sự diệt vong của dân tộc đó. Những
dân tộc cổ xưa sáng tạo ra các nền văn minh
huy hoàng đă bị xem như biến mất khi văn hóa
của chúng biến mất, mặc dù người của
các dân tộc đó vẫn tồn tại. Trung Quốc là
quốc gia duy nhất trên thế giới có nền văn
minh cổ đă liên tục trải qua trên 5000 năm.
Sự phá hủy nền văn hóa truyền thống là
một tội ác không thể tha thứ.
Nền văn hóa Trung
Quốc, được tin là do Trời truyền xuống,
đă bắt đầu bởi những thần thoại
như sự tạo ra trời và đất của Bàn
Cổ [1], sự tạo ra con người của Nữ Oa
[2], sự xác định hàng trăm cây thuốc của
Thần Nông [3], và sự phát minh ra chữ Trung Quốc
của Thương Hiệt [4]. “Người thuận theo
Đất, Đất thuận theo trời, Trời
thuận theo Đạo, và Đạo thuận theo Tự
nhiên”[5]. Sự uyên thâm về sự ḥa hợp giữa
người và trời của Đạo gia đă chảy
trong huyết mạch của nền văn hóa Trung Quốc.
“Cái đạo của Đại Học là rơ ràng ở
chỗ Đức sáng”[6]. Khổng Tử đă mở
một trường để dạy học hơn 2000
năm trước và đă truyền bá ra xă hội tư
tưởng Nho gia mà đại biểu gồm năm
đức hạnh chính là nhân, nghĩa, lễ, trí, và tín.
Trong thế kỷ đầu tiên, Phật pháp của
Phật giáo đă truyền sang phương đông tới
Trung Quốc với sự nhấn mạnh vào tính Thiện
và sự cứu độ tất cả các chúng sinh, đó
là “từ bi phổ độ”. Nền văn hóa Trung
Quốc đă được phong phú thêm. Sau đó, Nho gia,
Đạo gia, và Phật gia đă trở thành các niềm
tin bổ xung cho nhau trong xă hội Trung Quốc, đưa
triều đại nhà Đường (618-907 sau công nguyên)
lên đến đỉnh của sự huy hoàng và thịnh
vượng, được biết đến trên
khắp thế gian.
Mặc dù dân tộc
Trung Quốc đă trải qua nhiều lần bị phá
hoại và đả kích trong lịch sử, nền văn
hóa truyền thống của Trung Quốc đă chứng
tỏ là có sức sống, sức dung hợp cực
kỳ to lớn, và tinh hoa của nó đă liên tục
được truyền xuống. Sự hợp nhất
giữa trời và người
đại biểu cho quan niệm về vũ trụ
của tổ tiên chúng ta. Mọi người đều tin
rằng ở hiền gặp lành, và ở ác gặp ác.
Một đức hạnh cơ bản là 'đừng làm
cho người khác những ǵ ḿnh không muốn'. Trung,
hiếu, tiết, nghĩa là tiêu chuẩn cho cách làm
người trong xă hội, và năm đức hạnh
chính của Nho gia là nhân, nghĩa, lễ, trí, và tín đă
đặt ra nền tảng đạo đức cho
từng cá nhân và toàn xă hội. Văn hóa của Trung Hoa
thể hiện ra Thành (thành thật), Thiện (lương
thiện), Ḥa (ḥa vi quư), Dung (bao dung) những đặc
điểm ưu tú này. Sự tưởng nhớ chung
tới những người đă quá cố của
người Trung Quốc cho thấy ḷng sùng kính tới
“trời, đất, vua, cha mẹ và thầy giáo”. Đây là
sự biểu lộ văn hóa của các truyền
thống gốc rễ của Trung Quốc, nó bao gồm
sự kính trọng thần thánh, trời và đất (Thiên
Địa), sự trung thành với quốc gia (Quân), các giá
trị của gia đ́nh cha mẹ (Thân), và sự kính
trọng thầy giáo (Sư). Nội hàm vững chắc
của văn hóa là “Tôn sư trọng đạo”. Văn
hóa Trung Quốc truyền thống đă t́m kiếm sự
hài ḥa giữa con người và vũ trụ, và đă chú
trọng vào đạo đức và luân lư của từng
cá nhân. Nó đă có cơ sở trên tín ngưỡng tu
luyện của Đạo Khổng, Đạo Phật, và
Đạo Lăo, và đă cung cấp cho người Trung
Quốc ḷng khoan dung, sự tiến bộ xă hội, sự
bảo vệ đạo đức con người, và
niềm tin chân chính.
Không giống như
pháp luật, mô tả các quy định cứng nhắc,
văn hóa hoạt động như một chế
ước mềm mại. Pháp luật thi hành trừng
phạt sau khi một tội ác bị phạm phải, trong
khi văn hóa, bằng cách giáo dục cho có đạo
đức, ngăn ngừa các tội ác không cho xảy ra
từ trong trứng nước. Giá trị luân lư
đạo đức của một xă hội thường
phản ảnh cụ thể từ bên trong văn hóa
của nó.
Trong lịch sử
Trung Quốc, văn hóa truyền thống đă đạt
tới đỉnh điểm của nó trong triều
đại nhà Đường thịnh vượng, hội
tụ tới đỉnh cao quyền lực của
quốc gia Trung Quốc. Khoa học cũng tiến bộ
và có được danh tiếng độc nhất vô
nhị với tất cả các quốc gia khác. Các học
giả từ Châu Âu, Trung Đông, và Nhật Bản đă
đến để học tập tại Trường
An, kinh đô của triều đại nhà
Đường. Những đất nước quanh Trung
Quốc đă xem Trung Quốc như là nước tông
chủ. “Nhiều quốc gia đă đến để
triều cống Trung Quốc, dù rằng phải qua
nhiều tầng phiên dịch và phải thông qua nhiều
thủ tục.” [7]
Sau triều
đại nhà Tần (221-207 trước Công Nguyên(CN)), Trung
Quốc thường bị chiếm bởi những dân
tộc thiểu số. Điều này đă xảy ra trong
các triều đại nhà Tùy (581-618 sau CN), Đường
(618-907 sau CN), Nguyên (1271-1361 sau CN) và Thanh (1644-1911 sau CN) và
trong một số lần khác khi những dân tộc
thiểu số thành lập chế độ của riêng
họ. Tuy nhiên, hầu như tất cả các dân tộc
này đă bị đồng hóa theo các cách của
người Trung Quốc. Điều này cho thấy sức
mạnh đồng hóa to lớn của văn hóa Trung
Quốc truyền thống. Như Khổng Tử đă nói,
“(V́ vậy) nếu người phương xa không tuân theo,
th́ thu phục họ bằng cách tu Văn và Đức
(của chúng ta)”[8].
Từ khi nắm
quyền lực năm 1949, Đảng Cộng sản Trung
Quốc (ĐCSTQ) đă dành các tài nguyên quốc gia vào
việc phá hủy nền văn hóa truyền thống
của Trung Quốc. Ư định xấu xa này tuyệt
đối không đến từ nhiệt tâm công nghiệp
hóa của ĐCSTQ, cũng không từ sự ngu dốt
đơn giản trong việc tôn thờ văn minh
phương Tây. Hơn thế, nó đă đến từ
sự đối nghịch ư thức hệ cố hữu
của ĐCSTQ đối với văn hóa truyền thống
của dân tộc. V́ vậy sự phá hoại văn hóa
Trung Quốc của ĐCSTQ đă được lập
kế hoạch, tổ chức tốt, và hệ thống
hóa, được hỗ trợ bởi sự sử
dụng bạo lực của chính quyền. Từ khi
được thành lập, ĐCSTQ chưa hề bao
giờ ngưng “cách mạng hóa” nền văn hóa của
Trung Quốc trong việc cố gắng phá hủy tinh
thần của nó một cách triệt để.
Thậm chí c̣n đáng
đê tiện hơn cả sự phá hoại văn hóa
truyền thống của Trung Quốc là sự lạm
dụng và thay đổi lừa lọc có chủ ư của
ĐCSTQ đă phát huy những phần đồi bại
từ lịch sử của Trung Quốc, những thứ
đă xảy ra bất cứ khi nào con người xa
rời các giá trị truyền thống, như là sự
tranh giành quyền lực nội bộ bên trong hoàng tộc,
sự sử dụng các thủ đoạn và âm mưu, và
sự áp dụng chế độ độc tài và chuyên
chế. Nó đă sử dụng các ví dụ lịch sử
để giúp tạo thành một bộ chuẩn mực
thiện ác, phương thức tư duy, và hệ
thống đàm luận của nó. Bằng cách làm như
vậy, khiến cho nhân dân hiểu lầm rằng đó là
“văn hóa Đảng”, là một sự kế thừa
của văn hóa truyền thống Trung Quốc. ĐCSTQ
thậm chí đă lợi dụng sự ác cảm của một
số người đối với “văn hóa
Đảng” để khuyến khích hơn nữa sự
từ bỏ văn hóa truyền thống Trung Quốc chân
chính.
Sự phá hoại
văn hóa truyền thống của ĐCSTQ đă mang
tới các hậu quả thảm khốc cho Trung Quốc.
Không chỉ con người mất các ước thúc về
đạo đức của họ, họ cũng bị
bắt buộc phải thấm nhuần các lư thuyết tà
ác của ĐCSTQ.
Văn hóa chân chánh
của người Trung Quốc đă bắt đầu
khoảng 5000 năm trước được sáng tạo
bởi Hoàng Đế, người được cho là ông
tổ đầu tiên của nền văn minh Trung
Quốc. Trên thực tế Hoàng Đế cũng là
người sáng lập nên tư tưởng Đạo
gia, cũng được gọi là trường phái tư
tưởng Hoàng-Lăo. Nho gia chịu sự ảnh
hưởng sâu sắc của Đạo gia. Ngài Khổng
Tử giảng: “Lập chí ở Đạo, căn cứ
ở Đức, noi theo ở Nhân, học rộng ở Nghệ”
và “Nếu một người nghe Đạo buổi sáng,
người đó có thể chết mà không hối hận
vào buổi chiều”[9]. Cuốn Kinh Dịch, một
ghi chép về trời và đất, âm và dương, các thay
đổi của vũ trụ, sự phát triển và suy
tàn của xă hội, và các luật về cuộc sống
con người, đă được Nho gia coi là “Số
một trong số tất cả các tác phẩm kinh
điển của Trung Quốc”. Sức mạnh tiên tri
của cuốn sách đă vượt xa những ǵ khoa
học hiện đại có thể nhận thức. Bên
cạnh Đạo gia và Nho gia, tư tưởng Phật
gia, đặc biệt tư tưởng phái Thiền tông,
đă có một ảnh hưởng âm thầm lặng
lẽ nhưng sâu xa đối với những nhà trí
thức Trung Quốc.
Tư tưởng Nho
gia là phần văn hóa Trung Quốc truyền thống
đă đặt trọng tâm vào “nhập thế.” Nó chú
trọng vào đạo đức luân lư gia đ́nh, ở đó
ḷng hiếu thảo đóng một vai tṛ cực kỳ quan
trọng, dạy rằng “tất cả ḷng tốt bắt
đầu từ ḷng hiếu thảo” (Bách thiện
hiếu vi tiên). Khổng Tử đề cao “nhân, nghĩa,
lễ, trí và tín,” nhưng cũng nói, “Chẳng phải ḷng
hiếu thảo và kính trên nhường dưới là
gốc rễ của nhân đức?”
Luân thường
đạo lư dựa trên nền tảng gia đ́nh có
thể được mở rộng một cách tự
nhiên để hướng dẫn đạo đức xă
hội. Ḷng "hiếu thảo" có thể được
khuyếch trương đến sự "trung thành"
của quần thần đối với vua. Người
ta nói rằng, “Hiếm khi một người có ḷng
hiếu để, mà lại phạm thượng với
bề trên”[10]. "Để" là kính nhường
bực huynh trưởng, là mối quan hệ giữa anh
em, và có thể được mở rộng hơn nữa
đến sự "nghĩa khí" và sự công bằng
giữa bè bạn. Nho gia dạy rằng trong gia tộc
phải là phụ từ, tử hiếu, huynh hữu,
đệ cung, một người cha phải từ ái,
một người con phải hiếu thảo, anh lớn
phải thân thiện, và em nhỏ phải cung kính lễ
phép. Ở đây, "từ tâm" của người cha
có thể được mở rộng đến sự
"nhân từ" của vua với quần thần.
Chừng nào mà các truyền thống trong gia tộc có
thể được duy tŕ, luân lư đạo đức
xă hội tất nhiên có thể được giữ ǵn.
“Tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ” [11]
Tư tưởng
Phật gia và Đạo gia là bộ phận xuất
thế trong văn hóa Trung Quốc truyền thống.
Sự ảnh hưởng của Phật gia và Đạo
gia có thể thấy trong tất cả các khía cạnh
cuộc sống của dân chúng b́nh thường. Trung y, khí công, phong thủy, và bói
toán. Những môn này có nguồn gốc liên qua đến
tư tưởng của Đạo Gia rất sâu
đậm, cũng như là những khái niệm trong tư
tưởng Phật gia về thiên quốc và địa
ngục, thiện ác báo ứng, cùng với đạo
đức luân thường của tư tưởng Nho
gia, đă tạo thành hạch tâm của văn hóa Trung
Quốc truyền thống.
Tín ngưỡng Nho,
Phật và Đạo đă đem lại cho người
Trung Quốc một hệ thống tinh thần đạo
đức rất ổn định, không thay đổi
chừng nào trời đất c̣n tồn tại “Thiên
bất biến, Đạo cũng bất biến”[12]. Sự bền vững, ḥa b́nh và
hài ḥa trong xă hội, là dựa vào thế hệ đạo
đức mà tồn tại.
Đạo
đức thuộc về lănh vực tinh thần; v́
vậy, nó thường thuộc về trừu
tượng, mà tác dụng trọng yếu của văn
hóa chính là sự diễn đạt thể hệ
đạo đức trong ngôn ngữ mà người thông
thường có thể hiểu.
Hăy lấy “Bốn Tác Phẩm Cổ
Điển Trung Quốc”, bốn tác phẩm nổi
tiếng nhất trong văn hóa Trung Quốc, làm ví dụ. Tây
Du Kư [13] là một chuyện thần thoại. Hồng
Lâu Mộng [14] bắt đầu với hội thoại
giữa một ḥn đá có linh hồn và Mang Mang đạo
sĩ, Diệu Diệu chân nhân cùng Không Không đạo nhân
tại đỉnh Vô Kê, núi Đại Hoang, đoạn này
đưa ra đầu mối về kịch tính
được bộc lộ trong suốt tác phẩm. Thủy
Hử [15] mở đầu với câu chuyện làm
thế nào mà Hồng thái úy, người nắm binh
quyền, đă bất cẩn giải phóng 108 yêu ma.
Truyền thuyết này giải thích nguồn gốc của
"108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc". Tam
Quốc Diễn Nghĩa [16] bắt đầu với
một điềm báo của trời về một
thảm họa, và kết thúc bằng sự phán xét không
thể tránh được của thiên mệnh: “Hợp
rồi tan, tan lại hợp, đó cũng là lẽ
nhiệm mầu của Trời Đất vậy”.
Những câu chuyện nổi tiếng khác, như là Đông
Chu Liệt Quốc [17] và Thuyết Nhạc Toàn
Truyện (Chuyện đầy đủ về Nhạc
Phi) [18], tất cả đều bắt đầu với
những truyền thuyết tương tự.
Việc sử dụng thần
thoại của những nhà viết tiểu thuyết này
không phải là một trùng hợp, mà là sự phản
ảnh triết lư cơ bản của người trí
thức Trung Quốc với sự tự nhiên và con
người. Những tiểu thuyết này có một
ảnh hưởng sâu sắc lên tâm trí người Trung
Quốc. Khi nói về “nghĩa”, mọi người nghĩ
đến Quan Vũ (160-219 sau CN) trong Tam Quốc Diễn
Nghĩa hơn chỉ là về khái niệm khô cứng
của từ ngữ,
‘nghĩa’ của ông ta đối với bạn
của ḿnh đă vượt lên mây tới trời xanh
như thế nào; ḷng trung thành không thể lay chuyển
của ông ta với bề trên của ông mà cũng là anh em
kết nghĩa (Lưu Bị) đă đem lại cho ông
sự kính trọng thậm chí từ kẻ thù của ông ta
như thế nào; sự dũng cảm của ông ta trong
chiến trận đă chiến thắng trong các t́nh
huống thảm khốc nhất, sự thất bại
cuối cùng của ông trong trận chiến tại Mạch
Thành, và, cuối cùng là, sự gặp gỡ của ông ta
với tư cách một vị thần với con trai
của ông như thế nào. Khi nói tới chữ “trung”
người Trung Quốc tự nhiên nghĩ tới Nhạc
Vũ Mục (1103-1141 sau CN), một vị tướng nhà
Tống người đă phục vụ đất
nước của ḿnh với tính chính trực và ḷng trung
thành hoàn toàn, và Khổng Minh (181-234 sau CN), thừa tướng
của nước Thục trong thời Tam Quốc,
người “hiến dâng cả đời cho đến
tận khi trái tim ngừng đập.”
Sự ca ngợi ḷng trung và nghĩa
trong văn hóa Trung Quốc truyền thống đă
được miêu tả đầy đủ trong
những câu truyện đầy mầu sắc của các
tác giả này. Những nguyên tắc tinh thần trừu
tượng họ tán thành đă được làm rơ ràng và
biểu hiện trong những thành ngữ văn hóa.
Đạo gia giảng Chân. Phật gia giảng Thiện, và Nho gia giảng Trung, Thứ (vị tha), Nhân,
Nghĩa. “Mặc dù h́nh
thức của chúng khác nhau, mục đích của chúng là
như nhau… tất cả chúng đều truyền cảm
hứng cho con người trở về với Thiện”[19].
Đây là những khía cạnh giá trị nhất của
văn hóa truyền thống Trung Quốc dựa trên
niềm tin vào Nho, Phật và Đạo.
Văn hóa truyền thống Trung
Quốc đầy những khái niệm và nguyên tắc
như là thiên, đạo, thần, phật, mệnh, duyên,
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, liêm, sĩ, trung, hiếu,
tiết và nhiều nữa như vậy. Nhiều
người Trung Quốc có thể mù chữ, nhưng
họ vẫn quen với hí kịch truyền thống.
Những h́nh thức văn hóa này đă là những cách quan
trọng đối với người thường
để học các đức hạnh truyền thống.
Do đó, sự phá hoại của ĐCSTQ đối
với văn hóa Trung Quốc truyền thống là một
sự tấn công trực tiếp vào đạo đức
của người Trung Quốc và làm suy yếu nền
tảng an định và hài ḥa trong xă hội.
“Triết học” của Đảng
Cộng Sản hoàn toàn mâu thuẫn với văn hóa
truyền thống chân chánh của Trung Quốc. Văn hóa
truyền thống là kính úy thiên mệnh, như Khổng
Tử đă từng nói, “Tử sanh hữu mệnh, phú quư
tại thiên.”[20]. Cả Phật gia và Đạo gia
đều là hữu Thần, và tin vào sự luân hồi, và
thuyết nhân quả nghiệp lực về cái thiện và
ác. Đảng Cộng Sản, th́ trái lại, không những
chỉ tin vào thuyết vô Thần, mà c̣n “vô pháp vô thiên”. Nho
gia coi trọng gia đ́nh, nhưng Bản Tuyên Ngôn
Cộng Sản rơ ràng công bố sự thủ tiêu gia
đ́nh. Văn hóa Trung Quốc phân biệt người Trung
Quốc với người nước ngoài, nhưng Bản
Tuyên Ngôn Cộng Sản chủ trương không có
quốc gia. Văn hóa Nho gia đề cao ḷng tốt với
người khác, nhưng Đảng Cộng Sản cổ
vơ đấu tranh giai cấp. Nho gia khuyến khích ḷng trung
thành với bề trên và t́nh yêu đất nước, c̣n Bản Tuyên Ngôn Cộng Sản đề
xướng sự loại bỏ các quốc gia.
Để đạt được và
duy tŕ quyền lực ở Trung Quốc, Đảng
Cộng Sản đầu tiên đă gieo trồng những
tư tưởng trái đạo đức trên mảnh
đất Trung Quốc. Mao Trạch Đông đă tuyên
bố, “Nếu chúng ta muốn lật đổ một
quyền lực, trước tiên chúng ta phải tạo ra
sự tuyên truyền, và làm việc trong lănh vực hệ
tư tưởng”[21]. ĐCSTQ đă nhận ra rằng lư
thuyết cộng sản bạo lực, mà được
tồn tại với vơ trang, đă bị tư
tưởng phương Tây từ chối và không thể
đứng vững trước lịch sử văn hóa
5000 năm sâu sắc của Trung Quốc. “Đă chót th́
phải chét”. V́ vậy ĐCSTQ đă hoàn toàn hủy
hoại văn hóa truyền thống Trung Quốc, và chỉ
như vậy chủ nghĩa Mác-xít Lênin-nít mới có
thể chiếm lấy chính trường Trung Quốc.
Mao Trạch Đông đă từng nói là
ông ta không theo Đạo cũng không theo Trời [22]. Văn
hóa Trung Quốc truyền thống không nghi ngờ ǵ nữa
đă là một chướng ngại to lớn nên ĐCSTQ
thách thức Đạo và chiến đấu với
trời.
Ḷng trung thành trong văn hóa Trung Quốc
truyền thống không có nghĩa là sự trung thành một
cách ngu muội. Trong con mắt của mọi người,
Hoàng đế là “con của Trời”: có Trời ở bên
trên ông ta. Hoàng đế không thể lúc nào cũng đúng.
Do đó có nhu cầu cần những giám quan để chỉ
ra những lỗi của hoàng đế vào mọi lúc.
Hệ thống biên niên sử của Trung Quốc có
những sử gia ghi chép lại mọi lời nói và hành
động của hoàng đế. Các viên quan về giáo
dục có thể trở thành thầy giáo v́ lợi ích
của vua, và hành vi của hoàng đế được
phán quyết bởi các học giả Nho gia. Nếu hoàng
đế trái đạo đức, không ngộ theo
Đạo, mọi người có thể vùng lên để
lật đổ ông ta, như là trường hợp khi
Thành Thang phạt Kiệt, hoặc Vũ Vương
phạt Trụ [23]. Những cuộc vùng lên đó,
được phán quyết từ văn hóa truyền thống,
không được coi là sự vi phạm ḷng trung thành
hoặc Đạo. Thay vào đó, chúng được xem
như là thay Trời hành Đạo. Khi Văn Thiên
Tường (1236-1283 sau CN) [24], một tướng lănh
nổi tiếng thời nhà Tống, bị bắt làm tù
nhân, ông ta đă từ chối đầu hàng kẻ xâm
lược Mông Cổ, ngay cả khi Hoàng Đế cố
gắng thuyết phục ông ta đầu hàng. Điều
này là bởi v́, là một người theo Nho gia, ông ta tin
rằng “Dân là quan trọng bậc nhất; tiếp theo là
quốc gia; cuối cùng mới là người cai trị.”
(dân vi quư, xă tắc thứ chi, quân vi khinh) [25].
ĐCSTQ độc tài không cách nào có
thể chấp nhận những niềm tin truyền
thống như thế. ĐCSTQ đă muốn phong thánh
những lănh tụ của chính nó và đề cao sự sùng
bái cá nhân, và như thế sẽ không theo những khái
niệm lâu đời như là Trời, Đạo,
Thần cai quản phía trên. ĐCSTQ nhận thấy
rằng, nếu theo những tiêu chuẩn của văn hóa
truyền thống th́ những ǵ nó đă làm bị coi là
tội ác to lớn và ghê tởm nhất chống lại
Trời và Đạo. Họ cũng nhận thấy
rằng chừng nào văn hóa truyền thống c̣n tồn
tại, nhân dân sẽ không ca ngợi ĐCSTQ là “Đảng
ta vĩ đại, quang vinh, và chính xác.” Các học giả
sẽ tiếp tục truyền thống “hy sinh cuộc
sống của họ để thủ nghĩa,” “duy tŕ
sự công bằng với sinh mạng của họ”[26], và
đặt dân lên trên những người cai trị. V́
vậy, nhân dân sẽ không trở thành những con múa
rối của ĐCSTQ, và ĐCSTQ sẽ không thể
bắt buộc người dân suy nghĩ theo ư ḿnh.
Sự phản ảnh của văn hóa
truyền thống đối với trời, đất và
tự nhiên đă trở thành một chướng ngại
vật ngăn cản “cuộc chiến với thiên nhiên”
của ĐCSTQ trong một nỗ lực “thay thế
Trời và Đất.” Văn hóa truyền thống trân
trọng sinh mệnh con người, dạy rằng
“bất kỳ t́nh huống nào liên quan đến sinh
mệnh con người phải được xem xét
với sự quan tâm lớn nhất". Sự nhận
thức như vậy là trở lực đối với
tội diệt tuyệt quần thể và thống trị
bằng khủng bố của ĐCSTQ. Trong văn hóa
truyền thống, “Đạo Trời” mới là tiêu
chuẩn tột cùng của Thiện Ác trong đạo
đức. Điều này cũng bằng như
tước đoạt quyền giải thích về
đạo đức của ĐCSTQ. Do đó, ĐCSTQ
đă xem văn hóa truyền thống là một kẻ thù
lớn trong nỗ lực duy tŕ quyền lực của nó.
Văn hóa truyền thống Trung
Quốc bao gồm “ hữu Thần luận” và “thiên
mệnh luận”. Thừa nhận thiên mệnh là phải
chứng minh được chính ḿnh là “minh quân có
Đạo”, “phụng thiên thừa vận”. Việc
chấp nhận niềm tin vào Thần nghĩa là chấp
nhận rằng quyền lực đối với dân tùy
thuộc vào trời.
Tuy nhiên lư luận để nắm
quyền của ĐCSTQ đă được tóm tắt là,
“Dây xích truyền thống sẽ không bao giờ trói buộc
chúng ta nữa, vùng lên các bạn những người lao
động cần cù không bao giờ là nô lệ nữa. Trái
đất sẽ phát triển trên các nền tảng
mới; chúng ta không phải là không; chúng ta sẽ là tất
cả.” [27]
ĐCSTQ tuyên truyền chủ nghĩa
duy vật lịch sử, tuyên bố rằng chủ
nghĩa cộng sản là một thiên đường nhân
gian, con đường tới đó được lănh
đạo bởi giai cấp vô sản tiên phong, hoặc là
Đảng Cộng Sản. Niềm tin vào Thần do đó
đă trực tiếp thách thức tính hợp pháp trong
sự cầm quyền của ĐCSTQ.
Mọi việc Đảng Cộng
Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) làm, là để phục
vụ một mục đích chính trị. Để nắm
giữ, duy tŕ và củng cố sự chuyên chế bạo
lực của nó, ĐCSTQ cần thay thế nhân tính
bằng Đảng tính tà ác của nó, và thay thế văn
hóa truyền thống Trung Quốc bằng văn hóa
Đảng của nó là “giả dối, tà ác và đấu
tranh”. Sự phá hoại và thay thế này không chỉ bao
gồm các di tích văn hóa, di tích lịch sử và các
cuốn sách cổ, chúng là hữu h́nh, và những thứ vô
h́nh như là quan điểm truyền thống về
đạo đức, cuộc sống và thế giới,
mà tất cả các khía cạnh đời sống nhân dân
đều dính líu tới, bao gồm các hành động, suy
nghĩ và lối sống của dân. Cùng lúc, ĐCSTQ coi các
biểu hiện văn hóa bề mặt, tầm
thường như là “tinh hoa”, mà giữ lại chúng, và sau
đó đặt thứ “tinh hoa” này lên như mặt chính.
Đảng giữ vẻ bề ngoài của truyền
thống trong khi thay thế truyền thống thực
sự bằng văn hóa Đảng. Sau đó nó lừa
dối dân chúng và xă hội quốc tế đằng sau
bề ngoài “kế thừa và phát triển” văn hóa truyền
thống Trung Quốc.
Bởi v́ trên thực tế, văn hóa
truyền thống có gốc rễ dựa vào tư
tưởng Khổng, Phật và Đạo, nên bước
đầu tiên của ĐCSTQ trong việc phá hủy
văn hóa truyền thống là tiêu diệt các thể
hiện cụ thể của tôn giáo trong thế giới con
người, tức là phải nhổ rễ tam giáo.
‘Tam giáo’
chính, Đạo Khổng, Đạo Phật và Đạo
Lăo, đă gặp phải sự phá hủy trong các thời
kỳ khác nhau của lịch sử. Lấy Đạo
Phật làm ví dụ. Họ đă chịu bốn lần
đại nạn chính trong lịch sử, lịch sử
gọi là “Tam Vũ Nhất Tông” diệt Đạo Phật
bởi bốn vị hoàng đế Trung Quốc. Hoàng
Đế Thái Vũ[28] của triều đại Bắc
Ngụy (386-534 sau CN) và Hoàng Đế Vũ Tông [29] của
triều đại Đường (618-907 sau CN) cả hai
đều đă cố gắng làm tiêu tan Đạo
Phật để thay bằng Đạo Lăo. Hoàng
Đế Vũ [30] của triều đại Bắc Chu
(557-581 sau CN) đă cố gắng làm tiêu tan cả
Đạo Phật và Đạo Lăo, để sùng kính
Đạo Nho. Hoàng Đế Chu Thế Tông [31] của
triều đại Hậu Chu (951-960 sau CN) đă cố
gắng làm tiêu tan Đạo Phật chỉ để
sử dụng các tượng Phật để đúc
tiền, và đă không đụng chạm đến
Đạo Lăo hay Đạo Khổng.
Duy có
Đảng Cộng Sản Trung Quốc là tiêu diệt
cả tam giáo cùng một lúc.
Ngay sau khi ĐCSTQ thành lập chính
phủ, nó đă bắt đầu phá hủy các đền
chùa, đốt kinh thư và bắt các tu sĩ và ni cô
Phật giáo phải hoàn tục. Nó cũng không nhẹ tay
hơn chút nào trong việc phá hủy các địa
điểm của tôn giáo khác. Đến thập niên 1960,
hầu như không c̣n lại bất cứ địa
điểm tôn giáo nào ở Trung Quốc. Cuộc vận
động Đại Cách Mạng Văn Hóa đă mang
đến những tai ương cho văn hóa và tôn giáo
thậm chí lớn hơn trong chiến dịch gọi là
“Phá Tứ Cựu” [32] - nghĩa là: phá bỏ quan niệm
cũ, văn hóa cũ, phong tục cũ, và thói quen cũ.
Ví dụ, ngôi chùa Phật giáo
đầu tiên ở Trung Quốc là Chùa Bạch Mă [33]
được xây dựng trong triều đại nhà
Đông Hán (25-220 sau CN) ở ngoại thành Lạc
Dương, tỉnh Hồ Nam. Nó có vinh dự là “Cái nôi
của Phật giáo Trung Quốc” và “Nhà của Người
Sáng Lập”. Trong “Phá Tứ Cựu”, Đền Bạch Mă
tất nhiên không thể thoát khỏi sự cướp phá.
Có một đội sản xuất
của Chùa Bạch Mă ở gần ngôi chùa. Bí thư chi
bộ Đảng đă dẫn nông dân tới đập
tan ngôi chùa dưới danh nghĩa “cách mạng”. Những
bức tượng Mười Tám Vị La Hán bằng
đất sét 1000 năm tuổi được xây dựng
dưới triều đại Liêu (916-1126 sau CN) đă
bị phá hủy. Kinh Bối Diệp [34] mà một cao
tăng Ấn độ mang tới đền 2000 năm
trước đă bị đốt. Một vật quư
hiếm, Ngựa Ngọc Bích, đă bị đập tan ra
từng mảnh. Nhiều năm sau đó, vua Cămpuchia
Norodom Sihanouk lưu vong đă có một yêu cầu
đặc biệt muốn bày tỏ ḷng kính trọng
với Chùa Bạch Mă. Chu Ân Lai, thủ tướng Trung
Quốc lúc bấy giờ, đă vội vă ra lệnh
chuyển tới Lạc Dương kinh văn Bối
Diệp mà được lưu trữ trong Hoàng Thành ở
Bắc Kinh, và các bức tượng Mười Tám Vị
La Hán được làm từ triều nhà Thanh từ Chùa
Bích Vân ở vườn Hương Sơn[35] thuộc ngoại
ô Bắc Kinh. Với sự thay thế giả này, một
khó khăn ngoại giao đă được “giải
quyết.” [36]
Cuộc Cách Mạng Văn Hóa bắt
đầu vào tháng 5, năm 1966. Nó thực sự là “cách
mạng hóa” văn hóa Trung Quốc trong chiều
hướng phá hủy. Bắt đầu từ tháng 8
năm 1966, ngọn lửa điên cuồng của “Phá
Tứ Cựu” đă cháy trên toàn bộ vùng đất Trung
Quốc. Những thứ bị xem là thuộc “chế
độ phong kiến, chủ nghĩa tư bản,
chủ nghĩa xét lại”, các đền chùa Phật giáo,
Đạo giáo, các tượng Phật, danh thắng cổ
tích, tranh thư pháp, hội họa và các tác phẩm mỹ
thuật cổ đă trở thành những cái đích chính
để phá hủy của Hồng quân [37]. Lấy các
tượng Phật làm ví dụ. Có 1000 tượng Phật
được chạm khắc ngọc lưu ly trên
đỉnh của Núi Vạn Thọ trong Cung Điện
Mùa Hè (Di Ḥa Viên) [38] ở Bắc Kinh. Sau “Phá Tứ Cựu”,
tất cả chúng đă bị phá hủy, không có
tượng nào c̣n nguyên ngũ quan nữa.
Thủ đô của đất
nước là như thế, và trên toàn bộ các vùng c̣n
lại của quốc gia cũng như vậy. Thậm chí
cả những địa hạt ở xa cũng không thoát.
Có ngôi chùa Thiên Thai ở huyện
Đại tỉnh Sơn Tây. Nó được xây dựng
trong thời Thái Duyên của triều đại Bắc
Ngụy 1600 năm trước, và có những bức
tượng và bích họa rất quư giá. Mặc dù nó nằm
ở một sườn đồi khá xa dân cư của
địa hạt, những người dân tham gia vào “Phá
Tứ Cựu” cũng không ngại gian nan hiểm trở mà
đến dọn sạch các bức tượng và bích
họa ở đó đi… Chùa Lạng Thiên [39], nơi mà Lăo
Tử đă giảng bài và để lại tác phẩm
nổi tiếng 'Đạo Đức Kinh' 2500 năm
trước, nằm ở huyện Chu Chí tỉnh Thiểm
Tây. Xung quanh nơi mà Lăo Tử giảng bài, trong ṿng bán kính
10 dặm [40], có hơn 50 di tích lịch sử, bao gồm
chùa Tông Thánh Cung (Tôn Kính Hiền Nhân) mà Hoàng Đế
Đường Cao Tổ Lư Uyên Vi [41] đă xây dựng
để bày tỏ ḷng kính trọng Lăo Tử 1300 năm
trước. Bây giờ chùa Lạng Thiên và các di tích lịch
sử khác đă bị phá hủy, và tất cả các
đạo sĩ Đạo Lăo đă bị bắt phải
rời đi. Theo tiêu chuẩn của các Đạo sĩ,
một khi một người trở thành Đạo
sĩ, anh ta không bao giờ cạo râu hay cắt tóc. Tuy nhiên,
bây giờ các Đạo sĩ bị bắt phải
cắt tóc, bỏ áo choàng, và trở thành xă viên của công xă
nhân dân [42]. Một số trong
họ đă lấy con gái của các nông dân địa
phương và trở thành con rể… Tại các thánh địa
của Đạo Lăo trong núi Lao Sơn ở tỉnh Sơn
Đông, Thái B́nh Cung, Thượng Thanh Cung, Hạ Thanh Cung,
Đấu Mỗ Cung, Hoa Nghiêm Am, Ngưng Chân Quan, Quan
Đế Miếu, ‘tượng thánh, b́nh cúng tế, các
cuộn kinh điển Phật Giáo, di vật văn hóa, và
miếu bia tất cả đều bị đập tan và
đốt’… Văn Miếu ở Cát Lâm là một trong
bốn miếu lớn nhất của Đạo Khổng
tại Trung Quốc. Trong chiến dịch “Phá Tứ Cựu”,
nó đă phải chịu thiệt hại nặng nề.
[43]
Lenin đă từng nói, “Cách dễ
nhất để chiếm một thành lũy là công phá
từ nội bộ.” Là một nhóm con cháu của chủ
nghĩa Mácxít-Lêninnít, ĐCSTQ hiểu điều này một
cách tự nhiên và ngấm ngầm.
Trong “Kinh Đại Bát Niết Bàn,”
của Đại Thừa [44], đức Phật Thích Ca
Mâu Ni đă tiên đoán rằng sau khi Ngài nhập Niết
Bàn, ma quỷ sẽ chuyển sinh làm ḥa thượng, ni cô,
và nam nữ cư sĩ phá hoại làm loạn Phật Pháp.
Tất nhiên, chúng ta không thể xác nhận đức
Phật Thích Ca Mâu Ni có ngụ ư ǵ một cách chính xác. Tuy
nhiên, sự phá hoại Đạo Phật của ĐCSTQ
thực sự đă bắt đầu bằng cách thành
lập một “mặt trận thống nhất” với
một số tín đồ đạo Phật. Thậm chí
họ đă gửi một số thành viên Đảng
cộng sản bí mật tới xâm nhập tôn giáo trực
tiếp và phá hoại nội bộ. Trong một cuộc
họp phê b́nh trong Cách Mạng Văn Hóa, ai đó đă
hỏi Triệu Phác Sơ, phó chủ tịch Hiệp
Hội Phật Giáo Trung Quốc lúc đó, “Ông là một
Đảng viên, tại sao ông lại tin vào Phật Giáo?”
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đă đạt
Ngộ trọn vẹn và cao nhất qua “giới,
định, và tuệ.” V́ thế trước khi Ngài
nhập Niết Bàn, ngài đă hướng dẫn
đồ đệ của ngài “giữ ǵn và duy tŕ giới
cấm, chớ để giảm bớt hay vi phạm”.
Ngài cũng đă cảnh cáo, “Những người vi
phạm Giáo Huấn bị trời, rồng, ma quỷ và
thần ghê tởm. Tiếng xấu của họ sẽ lan
xa và rộng... Khi cuộc sống của họ kết
thúc, họ sẽ phải chịu đau khổ trong
địa ngục để trả nghiệp, và gặp
phải sự phán quyết cuối cùng không lay chuyển
được. Sau đó họ sẽ xuất hiện.
Họ sẽ tiếp tục chịu đau khổ bằng
cách mang thân của ma đói và thú vật. Họ sẽ
chịu đau khổ vô tận trong luân hồi như
thế này mà không được giải thoát.” [45]
Các thầy tu Phật giáo chính trị
vểnh những cái tai điếc trước những
lời cảnh cáo của đức Phật. Năm 1952,
ĐCSTQ gửi đại diện tới tham dự lễ
ra mắt Hội Phật Giáo Trung Quốc. Tại buổi
lễ này, nhiều tín đồ đạo Phật trong
hội đề nghị băi bỏ những giới
luật của Phật giáo. Họ tuyên bố rằng
những nguyên tắc này đă làm cho nhiều nam nữ thanh
niên chết. Một số người thậm chí lại
c̣n ủng hộ rằng “con người nên tự do tin vào
bất kỳ tôn giáo nào. Nên cũng có tự do cho các
thầy tu và nữ tu sĩ lập gia đ́nh, uống
rượu, và ăn thịt. Không ai nên can nhiễu vào
những việc này.” Vào lúc đó, Sư Phụ Hư Vân có
mặt tại buổi lễ và đă thấy rằng
Phật giáo đang đối diện với nguy hiểm
bị biến mất ở Trung Quốc. Ông ta đă
bước ra chống đối lại những
đề xuất này và kêu gọi ǵn giữ những giáo
huấn và h́nh thức của đạo Phật. Sư
phụ Hư Vân sau đó đă bị vu khống, và bị
gán nhăn hiệu là “phản cách mạng.” Ông bị giam
giữ trong pḥng trụ tŕ, và đă từ chối thức
ăn và nước uống. Thậm chí ông không
được ra khỏi pḥng để sử dụng nhà
vệ sinh. Ông cũng bị ra lệnh phải trao vàng,
bạc và súng ngắn của ông. Khi Hư Vân trả lời
rằng ông không có ǵ, ông đă bị đánh quá trầm trọng
đến nỗi sọ của ông bị rạn và
chảy máu, xương sườn của ông cũng
bị gẫy. Hư Vân lúc đó đă 112 tuổi. Quân
cảnh đă đẩy ông từ trên giường
xuống đất. Khi họ quay trở lại ngày hôm sau
và thấy rằng Hư Vân vẫn sống, họ lại
đánh ông tàn nhẫn một lần nữa.
Hội Phật Giáo Trung Quốc
được thành lập năm 1952 và Hội Đạo
Sĩ Trung Quốc được thành lập vào năm
1957, cả hai đều rơ ràng công bố trong bản tuyên
bố thành lập của ḿnh rằng họ sẽ ở
“dưới sự lănh đạo của chính phủ Nhân
Dân.” Trong thực tế, họ ở dưới sự lănh
đạo của ĐCSTQ vô Thần. Cả hai hội
đều cho thấy rằng họ sẽ chủ
động tham gia vào các hoạt động xây dựng và
sản xuất, và thực thi các chính sách của chính
quyền. Họ đă bị chuyển hóa thành các tổ
chức thế tục hoàn toàn. Tuy vậy những tín
đồ Đạo Phật và Đạo Lăo, những
người mà đă dành hết cho, và tuân theo các giáo
huấn đă bị gán nhăn hiệu là ‘phản cách
mạng’, hoặc là thành viên của những môn phái mê tín và
các bang hội bí mật. Dưới khẩu hiệu cách
mạng “làm trong sạch các tín đồ Đạo
Phật và Đạo Lăo”, họ đă bị bỏ tù,
bắt phải “cải tạo qua lao động,” hoặc
ngay cả bị xử tử. Thậm chí những tôn giáo
truyền bá từ phương Tây, như là Cơ
Đốc Giáo và Thiên Chúa Giáo cũng không được
tha.
Dựa trên thống kê được
đưa ra trong cuốn sách Đảng
Cộng Sản Trung Quốc Đă Khủng Bố Tín Đồ Thiên Chúa Giáo
Thế Nào được xuất bản năm 1958, ngay
cả chỉ trong con số giới hạn các tài liệu
đă được xuất bản, đă vạch ra cho
thấy rằng trong số những mục sư mà bị
gán là “địa chủ” hoặc “ác bá”, th́ một con
số gây sửng sốt, có 8.840 người bị
giết và 39.200 người bị bắt vào các trại lao
động. Trong số những mục sư bị gán là
“phản cách mạng” có 2.450 người bị giết, và
24.800 người bị bắt vào những trại lao
động. [46]
Các tôn giáo đều là các pháp môn mà con
người rời bỏ ràng buộc của thế
giới trần tục để tu luyện chính ḿnh.
Họ nhấn mạnh vào “bờ bên kia” (bờ của giác
ngộ hoàn toàn) và “thiên đàng”. Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni đă từng là một vị hoàng tử Ấn Độ.
Để t́m kiếm giải thoát [47], một trạng thái
mà trong đó người tu luyện đạt
được thanh tịnh trong tâm, trí tuệ cao hơn,
giác ngộ hoàn toàn, và Niết Bàn, [48] Ngài đă từ
bỏ ngai vàng và đi vào một ngọn núi có nhiều cây
để tu luyện bằng cách trải qua kinh nghiệm
những gian khổ và cực nhọc. Trước khi
đức Chúa Giê su giác ngộ, ma quỷ mang ngài tới
tột đỉnh của một ngọn núi, cho ngài
thấy tất cả các vương quốc trên thế
giới trong tất cả sự tráng lệ của nó. Ma
quỷ nói, “Nếu ngài quỳ xuống và tôn thờ tôi, tôi
sẽ cho ngài tất cả những thứ này.” Nhưng
đức Chúa Giê su đă không bị dụ dỗ. Tuy
vậy những thầy tu và mục sư chính trị,
những người đă thành lập mặt trận
thống nhất với ĐCSTQ, đă tạo ra hàng
loạt những lừa đảo và dối trá như là
“Nhân gian Phật giáo”, và “tôn giáo là chân thật, và chủ
nghĩa xă hội cũng như vậy”. Họ tuyên bố
rằng “không có sự mâu thuẫn giữa bờ bên này và
bờ bên kia.” Họ khuyến khích các tín đồ
Đạo Phật và Đạo Lăo theo đuổi hạnh
phúc, danh tiếng, sự tráng lệ, sự giàu có và
địa vị trong cuộc đời này, và đă thay
đổi các học thuyết tôn giáo và ư nghĩa của
chúng.
Đạo Phật nghiêm cấm sát sinh.
ĐCSTQ giết người như ruồi trong sự
“ngăn chặn phản cách mạng.”[49]. Các thầy tu chính
trị ngay sau đó đă giả mạo phán quyết
rằng “giết những kẻ phản cách mạng là
một việc thiện c̣n lớn hơn nữa”. Trong “Cuộc Chiến Chống Lại
Sự Xâm Lược Của Mỹ
và Giúp Đỡ Triều Tiên” (1950-1953)[50], ngay cả các
thầy tu c̣n bị gửi trực tiếp tới
chiến tuyến để chém giết.
Lấy Cơ Đốc giáo làm một
ví dụ khác. Năm 1950, Ngô Diệu Tông[51] thành lập
một giáo hội “Tam Tự”, nó theo nguyên tắc tự
trị (quản), tự dưỡng và tự truyền. Ông
ta tuyên bố rằng họ sẽ đập tan “chủ
nghĩa đế quốc”, và chủ động tham ra “Cuộc Chiến Chống Lại
Sự Xâm Lược Của Mỹ
và Giúp Đỡ Triều Tiên”.
Một người bạn tốt của ông ta đă
bị tù hơn 20 năm v́ từ chối tham gia Tam Tự
và đă chịu đựng đủ loại tra tấn và
làm nhục. Khi anh ta hỏi Ngô Diệu Tông, “Anh nghĩ
thế nào về những sự mầu nhiệm mà
đức Chúa Giêsu đă thực hiện?” Ngô đă trả
lời, “Tôi vứt bỏ tất cả chúng”.
Không công nhận các sự mầu
nhiệm của đức Chúa Giêsu là đồng nghĩa
với không công nhận thiên đường của
đức Chúa Giêsu. Làm thế nào mà một người có
thể được coi là một tín đồ
đạo Cơ Đốc khi người đó thậm
chí không công nhận thiên đường mà đức Chúa
Giêsu ngự trị? Tuy nhiên, là người sáng lập
của giáo hội “Tam Tự”, Ngô Diệu Tông đă trở
thành một thành viên của Ban Cố Vấn Chính Trị
đương nhiệm. Khi ông ta đứng trước
Đại Hội Trường Nhân Dân [52], ông ta chắc
chắn đă hoàn toàn quên những lời của
đức Chúa Giêsu: “Các con phải yêu kính Thượng
Đế với tất cả trái tim của con, với
tất cả linh hồn của con, và với tất
cả ư chí của con. Đây là điều răn
đầu tiên và vĩ đại nhất.” (Matthew, 22:37-38)
“Trả lại Caesar những ǵ của Caesar; và trả
lại Thượng Đế những ǵ là của Thượng
Đế” (Matthew, 22:21)
ĐCSTQ đă sung công các tài sản
của chùa, bắt các thầy tu và nữ tu nghiên cứu
chủ nghĩa Mácxít-Lêninnít để tẩy năo họ, và
thậm chí bắt họ phải lao động. Ví dụ,
có một “công trường Phật Giáo” ở thành phố
Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang. Hơn 25000 thầy tu và nữ
tu đă từng bị bắt phải làm việc ở
đó. C̣n lố bịch hơn nữa là ĐCSTQ khuyến
khích các thầy tu và nữ tu lập gia đ́nh để
làm tan ră Phật giáo. Ví dụ, ngay trước Ngày Phụ
Nữ 8/3 năm 1951, Hội Phụ Nữ ở thành
phố Tràng Sa, tỉnh Hồ Nam đă ra lệnh cho tất
cả các nữ tu trong tỉnh phải quyết
định lập gia đ́nh trong một vài ngày. Thêm vào
đó, các thầy tu trẻ và khỏe bị bắt tham gia
quân ngũ và bị gửi tới chiến trường
để phục vụ như là bia đỡ đạn!
Nhiều môn phái ở Trung Quốc
đă bị tan ră dưới sự đàn áp bạo
lực của ĐCSTQ. Những người ưu tú chân
chính trong Đạo Phật và Đạo Lăo cũng bị
đàn áp. Trong số những người c̣n lại,
nhiều người đă trở lại cuộc sống
thế tục, và nhiều người khác đă là
những Đảng viên bí mật chuyên mặc áo cà sa, [54]
áo thụng của các Đạo sỹ, hoặc áo ḍng
của các linh mục để bóp méo kinh Phật, tiêu
chuẩn Đạo Lăo và Kinh Thánh, và để kiếm cách
biện minh cho các chiến dịch của ĐCSTQ từ
những lư luận căn cứ của nó.
Sự hủy hoại các di tích văn
hóa là một phần quan trọng trong sự phá hoại
văn hóa truyền thống của ĐCSTQ. Trong chiến
dịch “Phá Tứ Cựu”, nhiều cuốn sách độc
nhất, tranh thư pháp, và bức họa được
sưu tập bởi những người trí thức
đă bị đốt trong lửa hoặc cắt vụn
thành bột giấy. Chương Bá Quân [55] có một bộ
sưu tập gia đ́nh trên 10,000 cuốn sách. Những
người cầm đầu Hồng Vệ Binh đă dùng
chúng để đốt lửa sưởi ấm cho họ.
Những ǵ c̣n lại bị gửi tới nhà máy giấy,
và bị xay vụn thành bột giấy.
Chuyên gia phục chế hội họa
và tranh thư pháp, Hồng Thu Thanh, là một lăo nhân
được biết đến như là “thần y”
đối với những bức tranh và bức thư pháp
cổ. Ông đă phục chế vô số các kiệt tác
nổi tiếng thế giới, như là tranh phong cảnh
đời Tống Huy Tông [56], tranh tre của Tô Đông Pha
[57], và các bức tranh của Văn Trưng Minh [58] và
Đường Bá Hổ [59]. Qua nhiều thập niên,
hầu hết hàng trăm bức tranh và bức thư pháp
cổ mà ông đă cứu được, đă trở thành
một bộ sưu tập đứng hàng đầu
của quốc gia. Các bức tranh và bức thư pháp mà ông
cứu chữa được trong lúc sưu tập đă
bị gán nhăn là “Tứ Cựu”, và đă bị đốt
trong lửa. Sau đó, ông Hồng đă khóc trong nước
mắt, “Hơn 100 cân [60] (50 kg) tranh và bức thư pháp, phải
mất lâu lắm mới đốt hết
được!” [61]
“Việc
đời thay thế nhau,
Luân chuyển thành kim cổ;
Non sông lưu danh tích,
Đời đời ta ngưỡng xem” [62]
Nếu nhân dân Trung Quốc ngày nay
vẫn nhớ một số việc trong lịch sử
của ḿnh, họ sẽ có thể cảm thấy khác khi
họ ngâm bài thơ này của Mạnh Hạo Nhiên. Các danh
sơn thắng tích —địa điểm lịch sử
bên các ngọn núi và ḍng sông nổi tiếng nhất đă
bị tàn phá, và đă biến mất trong cơn băo “Phá
Tứ Cựu.” Không chỉ là Lan Đ́nh, ở đó
Vương Hy Chi [63] đă viết tác phẩm nổi
tiếng Lan Đ́nh Tập Tự [64] đă bị phá
hủy, phần mộ của chính Vương Hy Chi cũng
đă bị tàn phá. Nơi ở của tổ tiên của
Ngô Thừa Ân [65] ở tỉnh Giang Tô cũng bị phá
hủy. Nơi ở của tổ tiên của Ngô Kính Tử
[66] ở tỉnh An huy cũng bị phá tan, bia đá mà Tô
Đông Pha đă viết bài Túy Ông Đ́nh Kư [67] cũng
đă bị đẩy đi bởi “những nhà cách
mạng trẻ” [68], và những chữ trên bia đá cũng
bị cạo sạch.
Tinh hoa của văn hóa Trung Quốc
đă được thừa kế và tích lũy qua
nhiều ngàn năm. Một khi đă bị phá hủy, nó
không thể được phục hồi lại. Nhưng
ĐCSTQ đă man rợ phá hủy nó dưới danh
nghĩa của “cách mạng” mà không có đau khổ hay
xấu hổ ǵ. Khi chúng ta luyến tiếc v́ Cung
Điện Mùa Hè Cổ, được biết tới
như là “cung điện của các cung điện”, bị
đốt bởi Các Lực Lượng Đồng Minh
Anh-Pháp, khi chúng ta luyến tiếc v́ tác phẩm vĩ
đại ‘Vĩnh Lạc Đại Từ Điển’
[69] bị phá hủy bởi ngọn lửa chiến tranh
của những kẻ xâm lược, th́ chúng ta lại có
thể nghĩ được sự phá hủy của
ĐCSTQ sẽ lan rộng nhiều hơn thế nữa,
kéo dài hơn và triệt để hơn những sự phá
hủy gây ra bởi bất cứ kẻ xâm lược nào
khác, như thế nào không?
Bên cạnh sự phá hủy các h́nh
thức vật chất của tôn giáo và văn hóa, ĐCSTQ
cũng sử dụng khả năng lớn nhất
của nó để phá hủy các đặc tính tinh
thần của người ta mà đă được
tạo ra bởi tín ngưỡng và văn hóa.
Hăy lấy cách xử sự của
ĐCSTQ đối với một số tín ngưỡng
làm ví dụ. ĐCSTQ xem các truyền thống của
những người theo đạo Hồi là một trong
“Tứ Cựu” - tư tưởng, văn hóa, truyền
thống và thói quen cũ. Do đó, nó đă bắt những
người theo đạo Hồi phải ăn thịt.
Những nông dân theo đạo Hồi và những nhà thờ
Hồi giáo bị bắt phải nuôi heo, và mỗi gia
đ́nh phải cung cấp hai con heo cho nhà nước
mỗi năm. Hồng vệ binh ngay cả c̣n bắt
Đức Đệ Nhị Đại Hoạt Phật,
Lạt Ma Ban Thiền, phải ăn phân người.
Họ đă bắt ba thầy tu từ chùa Cấp Lạc
ở thành phố Cáp Nhĩ Tân, tỉnh Hắc long giang, là
ngôi chùa Phật giáo lớn nhất được xây dựng
trong thời hiện đại (1921), phải dương
một tấm bảng biểu ngữ viết, “Địa
ngục với kinh - chỉ toàn là đồ bỏ đi”.
Vào năm 1971, Lâm Bưu [70], Phó Chủ
tịch Ban Trung Ương của ĐCSTQ, đă cố
gắng thoát khỏi Trung Quốc, nhưng đă bị
giết khi máy bay của ông bị rơi ở Undurkhan, Mông
Cổ. Sau đó, nơi ở của Lâm ở Bắc Kinh
tại Mao Gia Loan, có một số đoạn trích văn
của Khổng Tử được t́m thấy. Sau đó
ĐCSTQ đă bắt đầu hành động điên
rồ “Phê b́nh Khổng Tử”. Một nhà văn có bút danh
Lương Hiệu[71] đă đăng một bài báo trên tạp
chí Hồng Kỳ, là tạp chí mang tính biểu ngữ
của ĐCSTQ, nhan đề “Khổng Tử là ai?” Bài báo
mô tả Khổng Tử như là một “người
điên muốn quay ngược lịch sử lại”, và
là một “kẻ mị dân khôn ngoan và lừa đảo”.
Một chuỗi các tranh vẽ châm biếm và bài hát theo sau
đó, làm xấu xa danh tiếng Khổng Tử.
Theo cách này, sự cảm nhận
thần thánh trang nghiêm của tôn giáo và văn hóa đă
bị phá hủy tận cùng.
Ở Trung Quốc xưa, chính quyền
trung ương chỉ mở rộng các luật lệ
của nó ở cấp tỉnh, ở cấp dưới là
các thị tộc duy tŕ sự kiểm soát tự trị.
Như vậy trong lịch sử Trung Quốc, sự phá
hủy, như là “đốt sách và chôn các môn sinh Khổng
giáo” của Hoàng Đế Tần Thủy Hoàng[72] trong
triều đại nhà Tần (221-207 trước CN), và
bốn chiến dịch để loại bỏ đạo
Phật giữa thế kỷ thứ năm và thứ
mười của “Tam Vũ Nhất Tông”, tất cả
đều được đánh từ trên xuống, và
đă không thể nhổ tận rễ văn hóa. Các tư
tưởng và tác phẩm kinh điển của
đạo Phật và đạo Khổng đă tiếp
tục tồn tại trong những không gian rộng lớn
của xă hội. Đối ngược lại, chiến
dịch “Phá Tứ Cựu” của những nam nữ sinh
thanh thiếu niên được khuyến khích bởi
ĐCSTQ là một hành động nhổ tận rễ trên
toàn quốc với “sự hăng hái tự phát”. Sự
mở rộng của ĐCSTQ tới mọi làng qua các chi
bộ Đảng tại làng xă đă điều khiển
xă hội chặt chẽ tới mức mà hành động
“cách mạng” của ĐCSTQ đă mở rộng không có
giới hạn và đă ảnh hưởng mọi người
trên mọi tấc đất của Trung Quốc.
Không bao giờ trong lịch sử có
bất cứ vị hoàng đế nào nhổ tận
rễ khỏi đầu óc dân chúng những ǵ họ coi là
tuyệt vời nhất và thần thánh nhất, sử
dụng sự tuyên truyền sỉ nhục và vu khống
cùng với bạo lực, như là ĐCSTQ đă làm.
Sự tiêu diệt trên h́nh thái ư thức, có nhiều khi c̣n
hữu hiệu hơn và kéo dài hơn sự tiêu diệt
về vật chất.
Chữ viết của người
Trung Quốc là hiện thân của tinh hoa 5000 năm văn
minh. H́nh thức và phát âm của mỗi chữ, và các thành
ngữ và ư nghĩa văn chương tạo thành từ
sự kết hợp của các chữ, tất cả
đều diễn đạt các ư nghĩa văn hóa sâu
sắc. ĐCSTQ đă không những chỉ đơn
giản hóa chữ viết Trung Quốc, mà c̣n cố
gắng thay thế chúng bằng hệ thống “phiên âm” La
tinh, là những thứ sẽ loại bỏ tất cả
truyền thống văn hóa từ các chữ viết và ngôn
ngữ Trung Quốc. Mặc dù kế hoạch đă bị
thất bại, tuy thế tàn dư của nó đă gây
thiệt hại cho ngôn ngữ Trung Quốc. Tuy nhiên,
những người trí thức Trung Quốc thừa
kế một văn hóa truyền thống đó đă không
may mắn như vậy.
Trước năm 1949, Trung Quốc có
khoảng hai triệu người trí thức. Mặc dù
một số đă học tập ở những
nước phương Tây, họ vẫn thừa kế
một số tư tưởng Khổng giáo. Chắc
chắn là ĐCSTQ không thể buông lơi việc kiểm
soát họ, bởi v́ là các thành viên của tầng lớp “học
sĩ quư tộc” truyền thống, tư tưởng
của họ đóng các vai tṛ quan trọng trong việc
định h́nh ư thức của dân chúng.
Vào tháng 9 năm 1951, ĐCSTQ khởi
xướng cuộc “vận động cải tạo
tư tưởng” trên diện rộng bắt đầu
với những phần tử trí thức tại
trường Đại Học Tổng Hợp Bắc Kinh
, và yêu cầu “tổ chức một phong trào (giữa các
giáo viên trong các trường đại học, trung học
và tiểu học, và giữa các sinh viên đại học)
thú nhận lịch sử của họ một cách trung
thành và thành thực, để thanh lư các phần tử
phản cách mạng”[73].
Mao Trạch Đông không bao giờ thích
những người trí thức. Ông ta nói, “Họ [những
người trí thức] sẽ phải biết sự
thực rằng trên thực tế nhiều người
được gọi là trí thức, nói một cách
tương đối, khá ngu dốt và những
người công nhân và nông dân đôi khi biết nhiều
hơn họ.” [74] “So sánh với những người công
nhân và nông dân, những người trí thức chưa
được cải tạo là không sạch sẽ, và phân
tích đến cùng, th́ những người công nhân và nông
dân là những người sạch nhất, mặc dù tay
của họ bẩn và chân của họ vấy phân ḅ…”[75]
Cuộc khủng bố những
người trí thức của ĐCSTQ đă bắt
đầu dưới nhiều h́nh thức kết tội,
trải từ sự phê b́nh năm 1951 của Vũ
Huấn [76] “làm trường học hoạt động
bằng tiền xin được” (hành khất biện
học) tới cuộc tấn công cá nhân của Mao
Trạch Đông, năm 1955, kết tội nhà văn Hồ
Phong phản cách mạng [77]. Ban đầu, giới trí
thức không bị phân loại trong tầng lớp phản
động, nhưng đến năm 1957, sau khi vài tôn giáo
truyền thống chủ yếu đă đầu hàng qua
cuộc vận động “mặt trận thống
nhất”, ĐCSTQ đă có thể tập trung sức
mạnh của nó vào giới trí thức. Hành động
“đấu tranh chống cánh Hữu” sau đó đă
được bắt đầu.
Cuối tháng hai năm 1957, với tuyên
bố “trăm hoa đua
nở, trăm phái tranh hót”, ĐCSTQ đă kêu gọi
những người trí thức nói lên các đề
xuất và phê b́nh của họ với Đảng Cộng
Sản, hứa sẽ không có sự trả thù. Những
người trí thức mà đă không hài ḷng với ĐCSTQ
trong một thời gian dài v́ sự tàn phá của nó trên
mọi lĩnh vực, cho dù nó không phải là chuyên gia trên
những lĩnh vực đó, và v́ sự giết hại
thường dân vô tội của nó trong hành động
“tiêu diệt phản cách mạng” thời kỳ 1950-1953 và
để “loại bỏ phản cách mạng” thời
kỳ 1955-1957. Họ đă nghĩ rằng ĐCSTQ cuối
cùng đă trở lên cởi mở. V́ vậy họ đă
bắt đầu nói ra cảm nghĩ thực sự
của họ và sự phê b́nh của họ ngày càng lớn
mạnh.
Nhiều năm sau đó, vẫn có
nhiều người tin rằng Mao Trạch Đông chỉ
bắt đầu tấn công những người trí
thức sau khi đă trở nên thiếu kiên nhẫn với
những lời phê b́nh quá gay gắt của họ. Tuy nhiên,
sự thực là khác hẳn.
Ngày 15 tháng 5 năm 1957, Mao Trạch
Đông đă viết một bài báo nhan đề “Sự T́nh Đang Bắt Đầu Thay Đổi” và
lưu hành nó giữa những viên chức cao cấp của
ĐCSTQ. Bài báo viết: “Trong những ngày gần đây
những người cánh Hữu… đă tự biểu
lộ ḿnh rơ ràng nhất và hung dữ nhất. Những
người cánh Hữu, là những người chống
cộng sản, đang thực hiện sự cố
gắng chia rẽ để khuấy động một
cơn băo trên lực lượng thứ bảy ở Trung
Quốc… và có xu hướng phá hủy Đảng Cộng
Sản như vậy”[78]. Sau đó, những quan chức này
mà đă thờ ơ với chiến dịch “trăm hoa
đua nở, trăm phái tranh hót” đột ngột
trở nên hăng hái và “nghiêm chỉnh”. Trong hồi kư
của ḿnh “Quá khứ không
biến mất như làn khói”, con gái của Chương
Bá Quân đă kể lại:
“Lư Duy Hán, Bộ trưởng của
Bộ Mặt Trận Thống Nhất, gọi cá nhân
Chương Bá Quân để mời ông ta tham dự một
cuộc họp về chỉnh phong để đưa ra
ư kiến của ông ta về ĐCSTQ. Chương đă
được sắp xếp để ngồi trên hàng
ghế tràng kỷ đầu. Không biết đó là một
cái bẫy, Chương nói rơ ràng các phê b́nh của ông về
ĐCSTQ. Trong suốt buổi họp, “Lư Duy Hán có vẻ
thư giăn. Chương có thể nghĩ Lư đồng ư
với những ǵ ông ta nói. Ông ta không biết rằng Lư hài
ḷng khi thấy nạn nhân của ḿnh rơi vào bẫy.” Sau
cuộc họp, Chương được xếp vào
loại cánh Hữu số một ở Trung Quốc.”
Chúng ta có thể dẫn ra một
chuỗi các ngày tháng trong năm 1957 đă đánh dấu các
đề nghị hay diễn văn của những
người trí thức đưa ra các phê b́nh và đề
nghị như “Viện Thiết Kế Chính Trị” của
Chương Bá Quân vào ngày 21 tháng năm; “Các Quan Điểm
Chống Sai Lầm Của Sô Viết” của Long Vân vào ngày
22 tháng năm; “B́nh phản ủy viên hội” của La Long
Cơ ngày 22 tháng năm; diễn văn của Lâm Hy Linh
về “Phê B́nh Chủ Nghĩa Xă Hội Phong Kiến của
ĐCSTQ” tại trường đại học Bắc Kinh
vào ngày 30 tháng năm; “Đảng Nên Ngừng Lănh
Đạo Nghệ Thuật” của Ngô Tổ Quan vào ngày 31 tháng
năm; “Sự Thống Trị Của Đảng Trên
Thế Giới” của Chư An B́nh vào ngày mùng một tháng
sáu. Tất cả những đề xuất và diễn
văn này đă được mời, và đă
được đem ra hiến tế sau khi Mao Trạch
Đông đă mài sắc con dao đồ tể của ḿnh.
Tất cả những trí thức này, có
thể đoán được, sau đó đă bị gán nhăn
cánh Hữu. Có hơn 550.000 những người “cánh
Hữu” như vậy trên toàn quốc.
Truyền thống Trung Quốc có
“Học sĩ thà chết chứ không chịu nhục”.
ĐCSTQ lại có khả năng làm nhục những
người trí thức bằng cách phủ nhận
quyền sống của họ và thậm chí đổ trách
nhiệm cho gia đ́nh của họ nếu họ không
chấp nhận sự nhục nhă. Nhiều trí thức
đă đầu hàng. Trong suốt quá tŕnh, một số
họ tiếp tục nói những thứ [nhục nhă] khác
để cứu chính ḿnh, những thứ đă làm tan
vỡ trái tim của nhiều người. Những
người không chấp nhận sự nhục nhă đă
bị giết, bị đem sử dụng như là ví
dụ để hăm dọa các phần tử trí thức
khác.
Tầng lớp “học sĩ”
truyền thống, gương mẫu của đạo
đức trong xă hội, đă bị tiêu mất như
vậy. Mao Trạch Đông đă nói, “Tần Thủy Hoàng
đáng kể ǵ? Ông ta chỉ giết 460 nho sinh, nhưng
chúng ta đă giết 46.000 tên trí thức. Trong cuộc
đàn áp phản cách mạng của chúng ta, chẳng
phải chúng ta cũng đă giết một số phần
tử trí thức phản cách mạng sao? Tôi đă tranh
luận với những người phái dân chủ mà đă
kết tội chúng ta hành động giống như Hoàng
Đế Tần Thủy Hoàng. Tôi đă nói họ đă sai.
Chúng ta đă vượt hơn ông ta hàng trăm lần.”
[79]
Kỳ thực, Mao đă làm c̣n hơn là
giết các phần tử trí thức. Nói nghiêm trọng
hơn, là ông ta đă hủy diệt cả tín ngưỡng
và tâm linh của họ.
Sau khi Đảng cộng sản Trung
Quốc (ĐCSTQ) thực hiện cải cách kinh tế và
chính sách mở cửa, nó hồi phục lại nhiều
nhà thờ cũng như là chùa Phật giáo và Đạo
giáo. Nó cũng tổ chức một số hội lễ
chùa ở Trung Quốc, cũng như là hội văn hóa
ở hải ngoại. Điều này là nỗ lực cuối
cùng của ĐCSTQ để tận dụng và phá hủy
văn hóa truyền thống c̣n sót lại. Có hai lư do
để ĐCSTQ làm như vậy. Một mặt,
thiện lương trong nhân tính, mà Đảng Cộng
Sản không có cách ǵ để trừ sạch, sẽ
dẫn tới sự phá hủy “văn hóa Đảng”.
Mặt khác, ĐCSTQ đă có ư định sử dụng
văn hóa truyền thống để bôi mỹ phẩm
trang điểm bộ mặt thật của chúng
để che đậy bản tính tà của “giả dối, tà ác và đấu
tranh” của chúng.
Căn bản của văn hóa là các hàm
nghĩa bên trong về đạo đức, c̣n các h́nh
thức bề mặt chỉ có giá trị giải trí.
ĐCSTQ đă hồi phục lại những yếu
tố bề mặt của văn hóa, phục vụ
giải trí, để che đậy mục đích phá
hủy đạo đức. Cho dù có bao nhiêu cuộc
triển lăm tranh thư pháp và nghệ thuật mà ĐCSTQ
đă tổ chức, bao nhiêu lễ hội văn hóa
với rồng hổ nhảy múa trên sân khấu,
Đảng chỉ đơn giản hồi phục
lại vẻ bề ngoài, mà không phải là phần tinh hoa
của văn hóa. Trong khi đó, ĐCSTQ cũng lợi
dụng các phần tŕnh diễn văn hóa của nó cả
trong và ngoài Trung Quốc, thực chất c̣n v́ một
mục đích để duy tŕ quyền lực chính
trị.
Một lần nữa, lấy các chùa
làm ví dụ. Các chùa có ư nghĩa là các địa điểm
để con người tu hành, nghe chuông chùa buổi sáng và
tiếng gơ mơ lúc hoàng hôn, lễ bái đức Phật
dưới ngọn đèn dầu. Người ta trong xă
hội người thường cũng có thể sám
hối tội lỗi và lễ bái ở đó. Tu hành đ̣i
hỏi một tâm thanh tịnh, không theo đuổi bất
cứ điều ǵ. Sám hối tội lỗi và lễ bái
cũng đ̣i hỏi một hoàn cảnh kính cẩn và nghiêm
trang. Tuy nhiên, các chùa đă bị biến thành các nơi du
lịch v́ mục đích lợi nhuận kinh tế. Trong
số những người thực sự thăm viếng
các chùa ở Trung Quốc ngày nay, bao nhiêu người
đến để suy nghĩ về những lỗi
lầm của ḿnh với một trái tim thành thật và kính
cẩn trước Phật ngay sau khi tắm gội và thay
quần áo?
Phục hồi lại vẻ bề
ngoài nhưng phá hủy hàm nghĩa bên trong của văn hóa
truyền thống là một thủ đoạn mà ĐCSTQ
đă thực hiện để làm mê hoặc người
đời. Dù đó là Phật giáo, các tôn giáo khác, hoặc
các h́nh thức văn hóa xuất phát từ chúng, ĐCSTQ
cố t́nh nhận ch́m giá trị của văn hóa truyền
thống trong cách này.
Trong khi Đảng cộng sản Trung
Quốc (ĐCSTQ) đang phá hủy văn hóa
nửa-Thần truyền thống, nó cũng thầm
lặng thiết lập “văn hóa Đảng” của chính
nó thông qua các cuộc vận động chính trị liên
tục. Văn hóa Đảng đă cải tạo thế
hệ già, đầu độc thế hệ trẻ và
cũng có ảnh hưởng lên trẻ con. Ảnh
hưởng của nó là cực kỳ thâm sâu và rộng
khắp . Ngay cả khi nhiều người cố gắng
phơi bày sự tà ác của ĐCSTQ, họ không thể
không sử dụng tiêu chuẩn tốt hay xấu, cách phân
tích, và từ vựng đă được phát triển
bởi ĐCSTQ, những thứ chắn chắn mang
dấu ấn của văn hóa Đảng.
Văn hóa Đảng không chỉ
thừa kế cái ‘tà’ trong tà thuyết Mácxít-Lêninnít sinh ra
ở ngoại quốc, mà c̣n phối hợp một cách khéo
léo tất cả các nhân tố của phương diện
Âm từ hàng ngàn năm văn hóa Trung Quốc với cách
mạng bạo lực và triết lư đấu tranh từ
sự tuyên truyền của Đảng Cộng Sản.
Những thành phần mặt âm này bao gồm đấu
tranh nội bộ để dành quyền lực bên trong các
gia đ́nh hoàng tộc, h́nh thành các phường hội
để theo đuổi các lợi ích cá nhân, thủ
đoạn gian trá chính trị để làm những
người khác phải đau khổ, các mánh khóe và âm
mưu bẩn thỉu. Trong suốt sự đấu tranh
để sinh tồn của Đảng Cộng Sản
trong các thập niên qua, đặc tính “giả dối, tà ác
và tranh đấu” của nó đă được làm giàu
thêm, nuôi dưỡng và chuyển sang trang mới.
Chuyên chế và độc tài là tính
chất của văn hóa Đảng. Văn hóa này phục
vụ Đảng trong các cuộc đấu tranh giai
cấp và chính trị. Người ta có thể hiểu môi
trường “nhân văn” khủng bố và chuyên chế
của Đảng đă được nó lập ra như
thế nào từ bốn khía cạnh:
A. Văn hoá bưng bít
Văn hóa của Đảng cộng
sản là một độc quyền riêng rẽ mà không có
tự do tư tưởng, ngôn luận, hiệp hội hay
tín ngưỡng. Cơ chế thống trị của
Đảng là tương tự như một hệ
thống ống dẫn nước, dựa trên áp lực
cao và sự cách ly để duy tŕ t́nh trạng kiểm soát
của nó. Thậm chí một lỗ ṛ nhỏ xíu có thể
dẫn tới sự sụp đổ của toàn hệ
thống. Ví dụ, Đảng từ chối đối
thoại với sinh viên trong biến động sinh viên ngày
mồng 4 tháng sáu [80], sợ rằng nếu lỗ ṛ này phun
ra, công nhân, nông dân, trí thức và quân đội cũng có
thể đ̣i đối thoại, và rồi, Trung Quốc
sẽ thực sự tiến tới dân chủ và nền
chuyên chính một Đảng sẽ bị thay đổi.
Do đó, họ đă chọn giết người hơn là
thừa nhận đề nghị của sinh viên. Ngày nay
ĐCSTQ sử dụng hàng chục ngàn “cảnh sát mạng
lưới” để theo dơi mạng Internet và trực
tiếp ngăn chặn bất kỳ mạng lưới
điện tử ngoại quốc nào mà ĐCSTQ không thích.
B. Văn hóa khủng bố
Trong 55 năm qua, ĐCSTQ đă sử
dụng khủng bố để đàn áp tâm trí của
người dân Trung Quốc. Họ đă cầm và sử
dụng roi da và dao đồ tể - nhân dân không bao giờ
biết khi nào những thảm họa không thấy
trước được, sẽ xảy ra với họ
- để bắt nhân dân tuân theo. Người dân, sống
trong sợ hăi, trở nên ngoan ngoăn. Những người
chủ trương dân chủ, những nhà tư
tưởng độc lập, những người hoài
nghi trong hệ thống (của ĐCSTQ) và những thành
viên của những nhóm tinh thần khác nhau đă trở
thành những mục tiêu để giết như là một
cách để răn đe công chúng. Đảng muốn
đập tan bất kỳ sự đối lập nào
từ trong trứng nước.
C. Một văn hóa theo mạng lưới khống
chế
Sự khống chế xă hội
của ĐCSTQ là bao gồm tất cả. Có hệ
thống hộ khẩu hộ tịch, hệ thống
ủy ban dân phố, và đủ loại uỷ ban của
Đảng với tầng cấp cấu trúc khác nhau. “Các
chi bộ Đảng được thiết lập
tại tầng mức công ty”. “Mỗi một làng có chi
bộ Đảng của ḿnh”. Các thành viên của
Đảng và Đội Thanh Niên Cộng Sản có
những hoạt động đều đặn.
ĐCSTQ cũng cổ vơ một chuỗi các khẩu
hiệu tương ứng. Một vài ví dụ: “Canh
cửa nhà ḿnh và theo dơi người của ḿnh”. “Ngăn
chặn người của ḿnh không bị lôi cuốn”.
“Kiên quyết thực thi chế độ để
bắt nhận trách nhiệm, bảo đảm hoàn thành các
trách nhiệm, và chắc chắn trách nhiệm chỗ nào.
Canh gác và khống chế chặt chẽ. Nghiêm túc với
kỷ luật và quy tắc và bảo đảm các biện
pháp kiểm soát để duy tŕ và ngăn ngừa 24 giờ”.
“Văn pḥng 610[81] sẽ thành lập một ủy ban giám
sát để kiểm tra và theo dơi các hoạt động
trong mỗi vùng và đơn vị công tác vào những
khoảng thời gian thất thường”.
D. Văn hóa vạ lây
ĐCSTQ đă hoàn toàn lờ đi các
nguyên tắc cai trị theo luật pháp trong xă hội
hiện đại và thúc đẩy mạnh mẽ các chính
sách “liên luỵ”. Nó đă sử dụng quyền lực
tuyệt đối của ḿnh để trừng phạt
họ hàng của những người bị gán nhăn là
“địa chủ”, “giàu có”, “phản động”,
“phần tử xấu” và “cánh Hữu” (địa, phú,
phản, hoại, hữu). Nó đă đề xuất ra lư
luận “xuất thân”. [82]
Ngày nay, ĐCSTQ sẽ “gắn liền
tránh nhiệm của những nhà lănh đạo hàng
đầu và công khai khiển trách họ, nếu họ
thất bại trong vai tṛ lănh đạo của họ
đối với việc có những biện pháp thích
hợp để ngăn chặn các học viên Pháp Luân Công
đi tới Bắc Kinh khuấy động rắc
rối. Đối với những trường hợp
nghiêm trọng, hành động kỷ luật sẽ được
thực hiện”. “Nếu một người luyện
tập Pháp Luân Công, mọi người trong gia đ́nh
sẽ bị sa thải”. “Nếu một nhân viên luyện
tập Pháp Luân Công, tiền thưởng của mọi
người trong toàn bộ công ty sẽ bị giữ
lại.” ĐCSTQ cũng ban hành những chính sách rơ ràng phân
loại trẻ em thành “có thể được giáo dục
và chuyển hóa” hoặc “năm giai cấp đen”
(địa chủ, phú nông, phản cách mạng, phần
tử xấu và cánh hữu). Đảng thúc đẩy
việc tuân theo Đảng và “đặt đại
nghĩa lên trên người thân thuộc.” Những hệ
thống, như là hệ thống lưu trữ cá nhân và
tổ chức, và hệ thống tạm trú, đă
được thiết lập để bảo
đảm sự thực thi các chính sách của nó.
Người dân được khuyến khích tố cáo và
vạch trần những người khác, và
được thưởng cho những đóng góp với
Đảng.
A. Văn hóa tuyên truyền một chiều
Trong Cách mạng Văn Hóa, Trung Quốc
đầy những khẩu hiệu như: “chỉ thị
tối cao,” “Một câu (của Mao) nặng bằng
mười ngàn câu, mỗi câu là một chân lư.” Tất
cả các phương tiện truyền thông đều
được khơi lên để phát những lời ca
ngợi và tập thể ủng hộ Đảng. Khi
cần, những lănh đạo từ mọi tầng
cấp của Đảng, chính phủ, quân đội, công
nhân, đội thanh niên và các tổ chức phụ nữ
sẽ được mang ra để bày tỏ sự
ủng hộ của họ với Đảng. Mọi
người đă phải đi qua thử thách đó.
B. Văn hóa khuyến khích bạo lực
Mao Trạch Đông đă nói, “Với
800 triệu dân, không đấu tranh th́ làm sao có thể
hoạt động được?” Trong sự khủng
bố Pháp Luân Công, Giang Trạch Dân đă nói, “Dẫu
đánh những người luyện tập Pháp Luân Công
tới chết th́ cũng không bị trừng phạt.”
ĐCSTQ chủ trương “chiến tranh toàn diện,” và
“quả bom nguyên tử đơn giản chỉ là một
con hổ giấy… thậm chí nếu một nửa dân
số chết, nửa c̣n lại vẫn có thể xây
dựng tổ quốc chúng ta từ đống đổ
nát.”
C. Văn hóa kích động ḷng căm thù
“Không quên sự đau khổ của
giai cấp người nghèo, và nhất định nhớ
sự thù hằn trong nước mắt và máu” đă
trở thành một chính sách quốc gia cơ bản. Sự
tàn bạo đối với các kẻ thù giai cấp đă
được ngợi ca như một đức
hạnh. ĐCSTQ đă dạy “Cắn vào ḷng căm thù
của bạn, nhai nó và nuốt nó xuống. Gieo căm thù
trong ḷng để nó nảy mầm.” [83]
D. Văn hóa lừa gạt và dối trá
Đây là một vài ví dụ về
những lời dối trá của ĐCSTQ. “Thu hoạch trên
mỗi mẫu [84] là quá mười ngàn cân” trong Đại Nhảy Vọt
(1958). “Không một người nào bị giết trên
quảng trường Thiên An Môn” trong cuộc tàn sát ngày 4
tháng 6 năm 1989. “Chúng ta đă khống chế vi trùng SARS”
năm 2003, “Hiện tại là thời gian tốt nhất
cho nhân quyền ở Trung Quốc”, và cái gọi là “Tam
đại biểu” [85]
E. Văn hóa tẩy năo
Đây là một số khẩu hiệu
mà ĐCSTQ đă chế tạo để tẩy năo nhân dân:
“Không có Đảng Cộng Sản, th́ không có một Trung
Quốc mới.” “Lực lượng ṇng cốt dẫn
dắt niềm tin của chúng ta tiến lên là ĐCSTQ và
cơ sở lư thuyết dẫn đường tư
tưởng chúng ta là Mácxít - Lêninnít”[86], “Duy tŕ sự liên
kết tối đa với Ban Trung Ương
Đảng.” “Thực hiện lệnh của Đảng
nếu hiểu nó. Ngay cả khi không hiểu, cứ
thực hiện nó và sự hiểu biết sẽ sâu
sắc trong khi thực hiện các mệnh lệnh.”
F. Văn hóa nịnh hót
“Thiên đường và trái đất
là vĩ đại nhưng vĩ đại hơn vẫn
là ḷng tốt của Đảng;” “Chúng ta nợ
Đảng tất cả những ǵ chúng ta đạt
được;” “Tôi coi Đảng như mẹ của
tôi;” “Dùng sinh mệnh ḿnh để bảo vệ Ban Trung Ương
Đảng.” “Đảng vĩ đại, vinh quang và chính
xác.” “Đảng không thể thất bại”, và v. v.
G. Văn hóa giả dối để “qua cầu”
Đảng đă nắm lấy các
mẫu người điển h́nh, và dựng nên tấm
gương này tiếp đến gương mẫu khác,
để nâng cao các phong trào “kiến thiết văn minh
tinh thần của xă hội chủ nghĩa” và “giáo dục
tư tưởng”. Kết quả, mọi người
vẫn tiếp tục làm những ǵ họ đă làm
trước khi có mỗi cuộc vận động.
Tất cả các bài giảng công chúng, buổi học
tập, và chia sẻ kinh nghiệm đều trở thành
những việc giả vờ “nhận là thật
để thông qua”, và tiêu chuẩn đạo đức xă
hội tiếp tục có những bước nhảy lùi
lớn.
A. Văn hóa ganh ghét
Đảng đă đẩy mạnh
“chủ nghĩa quân b́nh tuyệt đối” để mà
“bất cứ ai khác thường sẽ trở thành
mục tiêu bị đả kích.” Người ta ghen tị
với những ai có khả năng lớn hơn và
những ai giàu có hơn - cái được gọi là
“bệnh mắt Đỏ.” [87]
B. Văn hóa mọi người dẫm đạp lên
nhau
ĐCSTQ đă khuyến khích “mặt
đối mặt đấu tranh và lưng tựa lưng
báo cáo”. Chỉ điểm những đồng nghiệp,
viết những tài liệu để vu khống họ,
bịa đặt ra các sự kiện và thổi phồng
các lỗi lầm của họ - những hành vi lệch
lạc này đă được sử dụng để
đo lường sự gần gũi với Đảng
và mong muốn tiến bộ.
A. Một văn hóa chuyển con người thành máy móc
Đảng muốn nngười dân là
“những con ốc không bao giờ hoen rỉ trong guồng
máy cách mạng,” là “công cụ được thuần hóa
cho Đảng,” hoặc để “Tấn công vào bất
cứ hướng ǵ mà Đảng chỉ chúng ta.”
“Những người lính của chủ tịch Mao nghe theo
Đảng nhất, họ đi bất cứ chỗ nào
cần họ và làm ổn định bất cứ chỗ
nào có thử thách gay go”.
B. Một văn hóa điên đảo thị phi
Trong Cách Mạng Văn Hóa, ĐCSTQ
muốn “có cỏ dại của chủ nghĩa xă hội
hơn là vụ mùa của chủ nghĩa tư bản”.
Quân đội bị ra lệnh bắn và giết trong
cuộc tàn sát ngày 4 tháng 6 để “đổi lấy 20
năm ổn định”. ĐCSTQ cũng “Làm cho
người khác những ǵ một người không
muốn làm cho chính ḿnh”
C. Một văn hóa tự ḿnh tẩy năo và tuyệt
đối phục tùng
“Cấp dưới tuân lệnh cấp
trên và toàn bộ Đảng tuân theo Ban Trung Ương
Đảng.” “Đánh không thương xót để nhổ
rễ bất kỳ tư tưởng ích kỷ nào nổi
lên trong tâm trí bạn.” “Nổ ra một cuộc cách mạng
tận sâu trong tâm hồn bạn.” “Duy tŕ liên kết tối
đa với Ban Trung Ương Đảng.” “Thống
nhất tư tưởng, thống nhất bước
chân, thống nhất mệnh lệnh, và thống nhất
chỉ huy.”
D. Một văn hóa bảo vệ vị trí của
kẻ nô tài
“Trung Quốc sẽ bị hỗn
loạn nếu không có Đảng Cộng Sản”; “Trung
Quốc lớn như vậy. Ai có thể lănh đạo
Trung Quốc ngoại trừ Đảng Cộng Sản?”
“Nếu Trung Quốc sụp đổ, nó sẽ là một
thảm họa trên toàn thế giới, v́ vậy chúng ta
phải giúp Đảng Cộng Sản duy tŕ sự lănh
đạo của nó”. Do từ sợ hăi và tự bảo
vệ, những nhóm người liên tục bị đàn áp
bởi ĐCSTQ thường thường có vẻ khuynh
Tả hơn là ĐCSTQ.
Những ví dụ quanh vấn
đề này c̣n có rất nhiều. Mọi độc
giả có thể t́m thấy những yếu tố khác nhau
của văn hóa Đảng qua các kinh nghiệm cá nhân
của ḿnh.
Những người đă trải qua
Cách Mạng Văn Hóa có thể vẫn nhớ một cách
sống động “Vở Kịch Mẫu” của nhạc
kịch hiện đại, các bài hát có lời của Mao,
và Điệu Nhảy Trung Thành. Nhiều người
vẫn nhắc lại các lời từ các cuộc hội
thoại trong Bạch Mao Nữ [88], Chiến Tranh
Địa Đạo [89], và Chiến Tranh Địa
Lôi [90]. Qua những tác phẩm văn chương này,
ĐCSTQ đă tẩy năo người dân, nhồi nhét
một cách bắt buộc vào tâm trí họ những thông
điệp như Đảng “anh minh vĩ đại”;
Đảng đă đấu tranh chống kẻ thù “gian
khổ và dũng cảm” thế nào; những người
lính của Đảng đă “hiến dâng tất cả cho
Đảng” thế nào; họ đă vui sướng
được hi sinh chính ḿnh cho Đảng thế nào; và
kẻ thù xấu xa và ngu ngốc thế nào. Ngày này qua ngày
khác, sự tuyên truyền của bộ máy ĐCSTQ tiêm
một cách bắt buộc vào mọi cá nhân sự tin
tưởng mà Đảng Cộng Sản cần. Ngày nay,
nếu người ta trở lại để xem bài
thơ phổ nhạc thành màn khiêu vũ ca nhạc -
“Phương Đông Màu Đỏ”, anh ta sẽ nhận ra
rằng toàn bộ chủ đề và phong cách của màn
tŕnh diễn là về “giết, giết, và giết hơn
nữa.”
Đồng thời, ĐCSTQ đă
tạo ra hệ thống diễn văn và thuyết tŕnh
của nó, như là ngôn ngữ sỉ nhục trong sự phê
b́nh số đông, những lời tâng bốc để hát
những lời ca ngợi Đảng, và những quy
phạm chính thức sáo rỗng tương tự như là
“tiểu luận tám đoạn.”[91]. Nhân dân bị làm cho nói
một cách không ư thức theo các mô h́nh suy nghĩ mà
khuyến khích khái niệm “đấu tranh giai cấp”, và
để “ca tụng Đảng”, và sử dụng ngôn
ngữ độc đoán thay v́ lập luận b́nh tĩnh
và lư trí.
Một bước tiến
trước chân lư là sai lầm. Văn hóa Đảng
cũng lạm dụng đạo đức truyền
thống tới một mức độ nhất
định. Ví dụ, văn hóa truyền thống coi trọng
“tín”, Đảng Cộng Sản cũng vậy. Tuy nhiên
những ǵ nó đề xướng là “trung thành và trung
thực với Đảng”. Văn hóa truyền thống
nhấn mạnh “hiếu”. ĐCSTQ có thể bỏ
người ta vào nhà tù nếu họ không chu cấp cho cha
mẹ của họ, nhưng lư do thực sự là nếu
không những người cha mẹ này sẽ trở thành
“gánh nặng” cho chính quyền. Tuy nhiên, khi phù hợp với
nhu cầu của Đảng, th́ con cái đ̣i hỏi
phải vạch ranh giới ngăn chia họ với cha
mẹ của họ. Văn hóa truyền thống nhấn
mạnh vào “trung”. Hơn nữa, “dân là quan trọng bậc
nhất, quốc gia theo sau, cuối cùng mới là những
người cai trị” (quân khinh dân quư, xă tắc vi
trọng). “Trung” mà ĐCSTQ ưa thích là “sự hiến dâng
mù quáng” - hoàn toàn mù quáng tới mức dân bị đ̣i
hỏi phải tin vào ĐCSTQ vô điều kiện và tuân
theo nó mà không có một thắc mắc ǵ.
Những lời thường
được sử dụng bởi ĐCSTQ là rất mê
lạc. Ví dụ, nó đă gọi nội chiến giữa
Quốc Dân Đảng và Cộng Sản là “Chiến Tranh
Giải Phóng”, như thể là người dân đă
được giải phóng khỏi sự áp bức.
ĐCSTQ đă gọi thời kỳ sau 1949 là “sau khi thành
lập quốc gia”, khi mà, trong thực tế, Trung Quốc
đă tồn tại lâu trước đó. ĐCSTQ
đơn giản chỉ là kẻ đảo chính thành
lập một chế độ chính trị mới. Ba
năm Đại Đói Kém
[92] được gọi là “ba năm thảm họa thiên
nhiên,” trong khi, thực tế là, nó không phải thảm
họa thiên nhiên chút nào, mà hoàn toàn là tai họa do con
người gây ra. Tuy nhiên, nghe những lời này mà
được sử dụng trong cuộc sống thường
ngày, và bị chúng ảnh hưởng một cách vô h́nh,
người dân vô t́nh chấp nhận những khái niệm
mà ĐCSTQ đă có ư định truyền cho họ.
Trong văn hóa truyền thống,
nhạc được xem là một phương thức
để kiềm nén dục vọng. Trong Lạc Thư
(Nhạc Thư), Tập 24 của Sử Kư, Tư Mă
Thiên (145-85 trước CN) [93] đă nói rằng bản tính
của con người là ḥa b́nh; cảm giác với
những vật chất bên ngoài ảnh hưởng cảm
xúc của người ta, và khuấy động t́nh
cảm yêu và ghét dựa trên đặc tính và trí tuệ
của con người. Nếu những t́nh cảm này không
bị kiềm nén, một người sẽ bị cám
dỗ bởi vô vàn các cám dỗ bên ngoài, và sẽ bị
đồng hóa bởi những nội tâm xấu và phạm
vào nhiều hành động xấu. V́ vậy Tư Mă Thiên
đă nói, các hoàng đế trong quá khứ sử dụng
sách dạy lễ nghi và nhạc để tiết chế
dân. Các bài hát nên “vui vẻ nhưng không tục tĩu,
buồn nhưng không quá đau thương”. Người ta
nên bày tỏ cảm giác và mong muốn, mà vẫn khống
chế được những t́nh cảm này. Khổng
Tử đă nói trong Luận Ngữ, “Ba trăm câu thơ
của Kinh Thi (một trong sáu tác phẩm kinh điển
được thu thập và diễn giải bởi
Khổng Tử) có thể tóm tắt trong một câu, ‘không
nghĩ tà’.
Một thứ đẹp như là
nhạc, tuy nhiên, đă bị ĐCSTQ sử dụng như
là một thủ đoạn để tẩy năo
người dân. Những bài hát như là “Chủ nghĩa xă
hội là tốt,” “Sẽ không có Trung Quốc mới
nếu không có Đảng Cộng Sản,” và nhiều bài
khác, đă được hát từ lớp mẫu giáo cho
đến đại học. Khi hát lên những bài hát này,
người dân đă vô t́nh chấp nhận những ư
nghĩa bên trong của lời hát. Hơn nữa, ĐCSTQ
đă ăn trộm giai điệu của những bài dân
ca du dương nhất và thay thế chúng bằng lời
ca ngợi Đảng. Điều này đă phục vụ
cả việc phá hủy văn hóa truyền thống và
đề cao Đảng.
Một trong những tài liệu kinh
điển của ĐCSTQ, “Diễn văn tại tọa
đàm Duyên An về Văn học và Nghệ thuật” [94]
đă đặt các nỗ lực văn hóa và quân
đội như là “hai chiến tuyến”. Nó đă tuyên
bố rằng chỉ có quân đội vơ trang th́ chưa
đủ; c̣n phải có “quân đội văn hoá” nữa.
Nó đă quy định rằng “ văn học nghệ
thuật nên phục vụ chính trị” và “ văn học
nghệ thuật của lớp giai cấp vô sản… là “các
bánh xe và đinh ốc” của cỗ máy cách mạng.”
Một hệ thống hoàn thiện “văn hóa Đảng”
đă được phát triển từ điều này,
với “thuyết vô Thần” và “đấu tranh giai cấp”
là tinh hoa của nó. Hệ thống này hoàn toàn đi
ngược lại văn hóa truyền thống.
“Văn hóa Đảng” thực chất
đă phục vụ xuất sắc trong việc giúp
đỡ ĐCSTQ đạt được quyền
lực và khống chế xă hội. Giống như quân
đội, nhà tù và lực lượng cảnh sát của
nó, văn hóa Đảng cũng là một bộ máy bạo
lực, nó cung cấp một loại bạo lực khác -
“bạo lực văn hóa”. Sự bạo lực văn hóa
này, bằng cách phá hủy 5000 năm văn hóa truyền
thống, đă làm thui chột ư chí của người dân,
và phá hoại ngầm sự liên kết của quốc gia Trung
Quốc.
Ngày nay, nhiều người Trung
Quốc hoàn toàn không biết tinh hoa của văn hóa
truyền thống. Một số thậm chí c̣n đặt
ngang hàng 50 năm “văn hóa Đảng” với 5000 năm
văn hóa truyền thống Trung Quốc. Đây là một
điều đau buồn cho người Trung Quốc.
Nhiều người không nhận ra rằng khi đối
chọi với cái gọi là văn hóa truyền thống
thực tế họ đang đối lập với
“văn hóa Đảng” của ĐCSTQ, không phải là
văn hóa truyền thống thực sự của Trung
Quốc.
Nhiều người hy vọng thay
thế hệ thống của người Trung Quốc
hiện tại bằng hệ thống dân chủ
phương Tây. Thực tế, dân chủ phương Tây
cũng đă được thành lập trên cơ sở
văn hóa, đáng kể là Cơ Đốc giáo, cái mà,
giữ quan điểm rằng “mọi người
đều b́nh đẳng trong con mắt của Chúa”, tôn
trọng nhân tính và các sự chọn lựa của con
người. Làm sao mà một “văn hóa Đảng” vô nhân
tính, bạo ngược của ĐCSTQ lại có thể
được sử dụng như là nền tảng
của một hệ thống dân chủ theo kiểu
Phương Tây?
Trung Quốc đă bắt đầu
đi lệch khỏi văn hóa truyền thống của
nó trong triều đại nhà Tống (960-1279 sau CN), và
văn hóa đó đă trải qua sự phá phách không ngớt
kể từ đó. Sau Biến Động 4 tháng Năm
năm 1919 [95], một số trí thức háo hức muốn
có thành công nhanh và ích lợi ngay đă cố gắng t́m
một con đường cho Trung Quốc bằng cách quay
lưng lại với văn hóa truyền thống mà
hướng về văn minh phương Tây. Tuy nhiên, các
xung đột và thay đổi trong lĩnh vực văn
hóa vẫn c̣n là một tiêu điểm của tranh căi
học thuật mà không có sự tham gia của các lực
lượng mang tính quốc gia. Nhưng, khi ĐCSTQ
xuất hiện, nó đă nâng cao các xung đột văn hóa
thành vấn đề đấu tranh sống và chết
của Đảng. V́ vậy ĐCSTQ đă bắt
đầu thực hiện một cuộc tấn công
trực tiếp vào văn hóa truyền thống, sử
dụng các phương tiện phá hủy cũng như là
sự lạm dụng gián tiếp trong h́nh thức “chấp
nhận cặn bă và loại bỏ tinh hoa”.
Sự phá hủy văn hóa quốc gia
cũng là quá tŕnh thành lập “văn hóa Đảng”.
ĐCSTQ đă phá vỡ phán quyết đạo đức
và lương tâm con người, v́ vậy dẫn nhân dân
quay lưng lại với văn hóa truyền thống.
Nếu văn hóa quốc gia bị phá hủy hoàn toàn, tinh
hoa của quốc gia sẽ biến mất cùng với nó,
dẫn đến chỉ c̣n có cái tên của quốc gia.
Đây không phải là một cảnh cáo phóng đại.
Cùng lúc, sự phá hủy văn hóa
truyền thống đă đem đến cho chúng ta
những thiệt hại vật chất không ngờ.
Văn hóa truyền thống coi
trọng sự hợp nhất giữa người và
trời, và sự đồng tồn tại hài ḥa giữa
người và tự nhiên. ĐCSTQ đă tuyên bố
niềm vui vô tận từ “đấu với trời và
đất.” Văn hóa này của ĐCSTQ đă dẫn
trực tiếp tới sự giảm giá trị trầm
trọng của môi trường tự nhiên mà gây bệnh
dịch cho Trung Quốc ngày nay. Lấy các nguồn
nước làm ví dụ. Người dân Trung Quốc, đă
từ bỏ giá trị truyền thống “một
người quư tộc quư trọng sự giàu có, nhưng anh
ta làm giầu một cách đúng khuôn phép,” đă cố t́nh
tàn phá và làm ô nhiễm môi trường tự nhiên. Hiện
tại, hơn 75 % của 50.000 kilômét (khoảng 30.000
dặm) sông của Trung Quốc là không phù hợp cho cá sinh
sống. Hơn một phần ba nước ngầm đă
bị ô nhiễm thậm chí là từ một thập niên
trước, và bây giờ t́nh h́nh tiếp tục xấu
hơn. Một “kỳ quan” thuộc loại lạ đă
xảy ra ở ḍng sông Hoài: Một trẻ em nhỏ đang
chơi bên ḍng sông phủ đầy dầu tạo một
tia lửa mà, sau khi chạm bề mặt của ḍng sông,
đă cháy thành một ngọn lửa cao 5 mét. Khi ngọn
lửa dâng lên không khí, hơn mười cây liễu trong
vùng lân cận đă bị đốt khô [96]. Người
ta có thể dễ dàng thấy rằng ai uống
nước đó không thể không phát triển bệnh ung
thư hay các bệnh tật lạ. Các vấn đề môi
sinh khác, như là sự tạo thành sa mạc và muối hóa
ở vùng Tây Bắc Trung Quốc, và ô nhiễm công nghiệp
ở những vùng phát triển, tất cả có quan hệ
tới việc xă hội mất sự tôn trọng với
thiên nhiên.
Văn hóa truyền thống phản
ảnh cuộc sống. ĐCSTQ đề xuất rằng
“nổi loạn là có thể bào chữa được,” và
“đấu tranh chống con người là đầy thích
thú.” Dưới danh nghĩa cách mạng, Đảng có
thể giết người và bỏ đói tới chết
hàng chục triệu người. Điều này đă
dẫn người dân tới chỗ giảm giá trị
cuộc sống, mà sau đó khuyến khích sự gia tăng
các sản phẩm giả và độc hại trên thị
trường. Ví dụ, ở thành phố Phụ
Dương của tỉnh An huy, nhiều trẻ sơ sinh
khỏe mạnh đă phát triển thành có chân tay ngắn,
thân thể yếu và gầy, và có cái đầu to trong
thời kỳ bú sữa mẹ của chúng. Tám trẻ
sơ sinh đă chết bởi v́ căn bệnh lạ này.
Sau khi nghiên cứu, người ta đă phát hiện ra
rằng căn bệnh này gây ra bởi sữa bột có
chất độc được sản xuất bởi
một nhà sản xuất tham lam và có trái tim đen tối.
Một số người nuôi cua, rắn và rùa mà cho ăn
kích thích tố và thuốc kháng sinh, trộn cồn công
nghiệp vào rượu vang để uống, đánh bóng
gạo bằng cách sử dụng dầu công nghiệp, và
làm trắng bột ḿ bằng tác nhân làm sáng của công
nghiệp. Trong tám năm, một nhà sản xuất ở
tỉnh Hà Nam đă sản xuất hàng ngàn tấn dầu
ăn mỗi tháng sử dụng các chất liệu
chứa chất gây ung thư như là dầu bị
thải đi, dầu trích từ các bữa ăn bị
bỏ lại, hoặc đất sét bị thải ra mà
chứa dầu c̣n dư sau khi nó đă được
sử dụng. Sản xuất thức ăn độc
hại không phải là một hiện tượng giới
hạn hay cục bộ, mà đă là phổ biến trên toàn
Trung Quốc. Điều này tương quan với hậu
quả của sự phá hoại văn hóa, nhân tâm không c̣n
đạo đức ước thúc, chỉ c̣n truy cầu
hưởng lạc vật chất.
Không giống như tính độc
quyền tuyệt đối và độc nhất của
văn hóa Đảng, văn hóa truyền thống có
một khả năng bao dung rất lớn. Trong triều
đại thịnh vượng nhà Đường, tư
tưởng Phật gia, Cơ Đốc giáo, và các tôn giáo
phương Tây khác đồng tồn tại một cách
hài ḥa với tư tưởng Nho gia, Đạo gia.
Văn hóa truyền thống Trung Quốc đích thực
sẽ giữ một thái độ khoan dung và rộng
mở với văn minh phương Tây hiện
đại. Bốn “con rồng” của Châu Á (Singapore,
Đài Loan, Nam Hàn và Hồng Kông) đă tạo ra một
đặc tính văn hóa “Tân Nho gia”. Nền kinh tế
đang vút lên của họ đă chứng minh rằng
văn hóa truyền thống không là một cản trở
với sự phát triển xă hội.
Cùng lúc, văn hóa truyền thống
đích thực đo lường chất lượng
cuộc sống con người dựa trên cơ sở
của sự hạnh phúc từ bên trong hơn là sự
thoải mái vật chất từ bên ngoài. “Tôi mong không có ai
khiển trách sau lưng tôi, hơn là có ai đó ca tụng
tôi trước mặt; tôi mong có b́nh yên trong tâm trí, hơn là
có sự thoải mái nơi thân thể.” [97] Đào Uyên Minh
(365-427 sau CN) [98] đă sống trong cảnh nghèo nàn, nhưng
ông đă giữ một tinh thần vui sướng và đă
hưởng thời gian thư nhàn “hái hoa cúc tây ở hàng
rào phía đông, lặng ngắm núi Phương Nam ở
đằng xa”.
Văn hóa không đưa ra những câu
trả lời cho các câu hỏi như là làm thế nào
để mở rộng sản xuất công nghiệp
hoặc đi theo hệ thống xă hội ǵ. Đúng
hơn, nó đóng một vai tṛ quan trọng trong việc cung
cấp các chỉ dẫn và ước thúc đạo
đức. Sự hồi phục thực sự của
văn hóa truyền thống sẽ là sự khôi phục
của khiêm nhường với Trời, Đất và
Tự nhiên, tôn trọng cuộc sống, và kính úy thần
linh của con người. Nó sẽ cho phép nhân loại
với Trời, Đất, và Tự Nhiên ở cùng trong
một xứ sở hài ḥa, và bảo dưỡng những
năm trời cho.
Chú Thích
[1] Bàn Cổ (Bành Tổ) là sinh
mệnh sống đầu tiên và là người sáng tạo
ra tất cả trong thần thoại Trung Quốc.
[2] Nữ Oa là nữ thần
mẹ người đă tạo ra nhân loại trong thần
thoại Trung Quốc.
[3] Thần Nông là một nhân
vật truyền thuyết trong thần thoại Trung
Quốc người đă sống 5000 năm trước.
Ông đă dạy dân làm nông. Ông cũng được công
nhận là dành cuộc đời ḿnh để t́m hàng
trăm cây thuốc (và độc) và nhiều thực
vật tự nhiên, những cây quan trọng cho sự phát
triển y học Trung Quốc truyền thống.
[4] Thương Hiệt là một
nhân vật truyền thuyết từ Trung Quốc cổ, là
người sáng tạo ra chữ viết, công nghệ Trung
Quốc. Phương pháp Thương Hiệt để đưa
dữ liệu vào tính toán kư hiệu Trung Quốc
được đặt tên theo tên ông.
[5] Từ Đạo Đức Kinh,
một trong những văn bản quan trọng nhất
của Đạo Lăo, được viết bởi Lăo
Tử.
[6] Các lời b́nh ngỏ từ sách Đại
Học của Khổng Tử.
[7] Từ Sử Kư của Tư
Mă Thiên (145-85 sau CN), người là nhà sử học
lớn đầu tiên của Trung Quốc. Nó ghi chép
lịch sử của Trung Quốc và các quốc gia lân
cận từ thời kỳ cổ đại tới
thời gian của ông. H́nh mẫu việc chép sử
của Tư Mă Thiên là độc nhất vô nhị và
được dùng như là một mô h́nh lịch sử
chuẩn chính thức của các triều đại hoàng
đế trong 2000 năm tiếp theo.
[8] Từ tác phẩm Luận Ngữ
của Khổng Tử.
[9] Từ tác phẩm Luận Ngữ
của Khổng Tử.
[10] Từ tác phẩm Luận Ngữ
của Khổng Tử.
[11] Khổng Tử đă nói trong sách
Đại Học ông đă viết, “Tu thân - Tề gia - Trị
quốc - B́nh thiên hạ”.
[12] Đổng Chung Chu (ca. 179-104
trước CN), một nhà tư tưởng Khổng giáo
trong thời nhà Hán, đă nói trong một chuyên luận Ba cách
để hài hoà người với trời (Thiên Nhân Tam
Sách) “trời c̣n tồn tại, Đạo không
đổi.”
[13] Tây Du Kư, viết bởi Ngô
Thừa Ân, là một trong những tiểu thuyết Trung
Quốc kinh điển nổi tiếng nhất. Nó dựa
trên một câu chuyện có thật về một nhà sư
Trung Quốc nổi tiếng triều đại nhà
Đường, Huyền Trang (602-664), người
đă đi bộ tới vùng đất thuộc Ấn
Độ ngày nay, là nơi sinh ra Phật Giáo, để t́m
kinh. Trong tiểu thuyết, Ngộ Không, Bát Giới và Sa
Tăng đă được Phật sắp xếp
để trở thành các đệ tử của Huyền
Trang và hộ tống ông tới Tây Trúc để lấy
kinh. Họ đă trải qua 81 nạn trước khi
tới được Tây Trúc và đắc Chính Quả.
[14] Hồng Lâu Mộng, viết
bởi Tào Tuyết Cần (1715?-1763) vào triều
đại nhà Thanh. Đó là một bộ truyện t́nh yêu
buồn trên nền tảng sự suy tàn của một gia
đ́nh quư tộc. Lấy đó làm chủ đề trung
tâm, tiểu thuyết đă mở ra một bức tranh toàn
cảnh sống động và rộng lớn về
lịch sử xă hội. Nó cũng mô tả các nhân vật
chói lọi và đáng ghi nhớ mà trung tâm là Giả Bảo
Ngọc và Lâm Bảo Thoa. Cấu trúc tỉ mỉ và
trải rộng của nó cùng với giá trị văn
chương của nó trong h́nh thức ngôn ngữ trang nhă
đă làm cho nó được phổ biến rộng
khắp như là h́nh ảnh thu nhỏ của nghệ
thuật tiểu thuyết cổ điển của Trung
Quốc.
[15] Thủy Hử, một trong
những tiểu thuyết cổ điển lớn
của Trung Quốc, được viết vào thế
kỷ 14 bởi Thi Nại Am. Một trăm lẻ tám
nam nữ đă tụ họp với nhau sống ngoài ṿng
pháp luật trên một đầm lầy. Mưu
đồ, mạo hiểm, tàn sát, chiến tranh, và những
câu chuyện lăng mạn được kể một cách
hồi hộp bởi người kể chuyện
truyền thống.
[16] Tam Quốc Diễn Nghĩa,
một trong những tiểu thuyết cổ điển
Trung Quốc nổi tiếng nhất viết bởi La
Quán Trung (1330?-1400?) dựa trên lịch sử thời Tam
Quốc (220-280 trước CN). Nó mô tả các cuộc
đấu tranh rắc rối và phức tạp để
giành ngai vàng giữa ba lực lượng chính trị hùng
mạnh: Lưu Bị, Tào Tháo, và Tôn Quyền, và tập trung
vào nhiều nhân tài lớn và những chiến lược
sâu đậm trong thời kỳ đó.
[17] Đông Chu Liệt Quốc,
một tiểu thuyết ban đầu được
viết bởi Yu Shaoyu vào triều đại nhà Minh,
được hiệu đính và viết lại bởi Feng
Menglong vào cuối triều đại nhà Minh, và sau đó
được tiếp tục hiệu đính bởi Cai
Yuanfang vào triều đại nhà Thanh. Nó bao phủ một
lích sử hơn 500 năm trong thời Xuân Thu (770-476
trước CN) và thời Chiến Quốc (475-221
trước CN).
[18] Thuyết Nhạc Toàn Truyện,
được viết bởi Qian Cai vào triều
đại nhà Thanh. Nó mô tả cuộc đời của Nhạc
Phi (1103-1142) sống ở triều đại Bắc
Tống, một trong những vị tướng và anh hùng
yêu nước nổi tiếng nhất trong lịch sử
Trung Quốc. Tướng Nhạc Phi xuất sắc trong
những trận chiến chống quân xâm lược
miền bắc từ nước Yên. Ông đă bị
đổ tội oan, tống vào tù và xử tử khi mà thừa
tướng Tần Cối cố gắng loại bỏ
phe chủ chiến. Sau đó Nhạc Phi giải oan và
một ngôi đền đă được xây để
tưởng nhớ ông. Bốn bức tượng bằng
gang đă được đúc cho mộ của ông.
Với những bộ ngực trần và tay bị trói sau
lưng và quỳ trước nó [ngôi mộ], chúng
đại diện cho những người chịu trách
nhiệm cho cái chết của Nhạc Phi. Nhạc Phi đă
trở thành một mẫu h́nh trong văn hóa Trung Quốc
về ḷng trung với nước.
[19] Đoạn trích này lấy từ
Toát yếu của các kinh văn Đạo Giáo chọn
lọc được biên soạn vào thời nhà Thanh.
[20] Xem [8].
[21] Từ diễn văn của Mao
tại phiên họp thứ tám của Đại hội
lần thứ 10 của ĐCSTQ.
[22] Những lời nguyên gốc của
Mao trong tiếng Trung Hoa sử dụng một sự
chơi chữ: Tôi thích một thày tu cầm một cái ô -
không Đạo (hoặc Pháp, chơi chữ với “tóc”) hay
trời (chơi chữ với “bầu trời”)
[23] Kiệt là tên của vua
cuối cùng triều đại nhà Hạ (thế kỷ
21-16 trước CN), và Trụ là vua cuối cùng
đời Thương (thế kỷ 16-11 trước CN).
Cả hai đều là những bạo chúa.
[24] Văn Thiên Tường
(1236-1283 sau CN), một tướng lĩnh chống lại
quân Mông Cổ để bảo vệ lănh thổ triềi
đại nhà Nam Tống. Sau khi bị nhốt trong tù, ông
đă bị giết vào ngày 9 tháng giêng năm 1283 sau khi đă
từ chối không đầu hàng quân Mông Cổ.
[25]
Từ Mạnh Tử.
[26] Từ một câu rất nổi tiếng trong Mạnh
Tử, “Cuộc sống, ước muốn của tôi; công
bằng, cũng là ước muốn của tôi. Khi tôi không
thể có cả hai cùng một lúc, tôi sẽ duy tŕ công
bằng với cái giá cuộc đời tôi.”
[27]
Từ Cộng Sản Quốc Tế Ca. Dịch sang
tiếng Trung Quốc th́ nghĩa đen của nó là: “Không
bao giờ có một đấng cứu rỗi, và chúng ta
cũng không dựa vào Chúa; để tạo ra hạnh phúc
cho con người, chúng ta dựa hoàn toàn vào chính chúng ta.”
[28] Hoàng Đế Thái Vũ đời Bắc
Ngụy, (424-452 sau CN).
[29] Hoàng Đế Vũ Tông
đời Đường, (840-846 sau CN).
[30] Hoàng Đế Vũ của triều đại
Bắc Chu, (561-579 sau CN).
[31] Hoàng Đế Chu Thế Tông
của triều đại Hậu Chu, (954-959 sau CN).
[32] Một biểu ngữ
được sử dụng giữa những năm 1960
trong Cách Mạng Văn Hóa ở Trung Quốc.
[33] Chùa Bạch Mă, chùa Phật giáo đầu tiên
ở Trung Quốc, được xây dựng vào năm 68
sau CN, năm thứ 7 của Yong Ping của triều
đại Đông Hán (25-220 sau CN).
[34] Bối Diệp trong tiếng Dai
gọi là Talan. Bối Diệp là loại thực vật
nhiệt đới thuộc họ cây cọ. Nó là một
loại cây cao có lá mỏng, không bị con nhậy cắn và
rất chậm bị khô hoàn toàn. Thời cổ khi giấy
chưa được phát minh, người Dai cổ đă
in thư hay các bài viết trên lá cây đó. Các bức thư
được khắc trên lá cũng được
gọi là Bối Diệp thư, và kinh trên đó, là Tanlan
(Bối Diệp kinh).
[35] Xiangshan Park, cũng được gọi
là Fragrant Hills Park, nằm cách Bắc Kinh 28 km về phía tây
nam. Được khởi công vào năm 1186 dưới
triều Jin, nó trở thành nơi nghỉ mùa hè của hoàng
gia vào các triều Nguyên, Minh và Thanh.
[36] Từ Các di vật văn hóa đă
bị đốt thế nào của Ding Shu.
[37] Hồng Quân là nói đến
những người dân tiên phong của Đại Cách
Mạng. Hầu hết là những người trẻ
tuổi ở giữa tuổi thanh thiếu niên (13
đến 19 tuổi).
[38] Cung điện Mùa Hè, nằm cách
Bắc Kinh 15 km, là vườn hoàng gia lớn nhất và
được giữ ǵn tốt nhất ở ở Trung
Quốc, có lịch sử hơn 800 năm…
[39] Chùa Lạng Thiên là một
điện thờ nổi tiếng ở Trung Quốc. Nó
được tôn kính như là “vùng đất đầu
tiên được ban phước dưới trời” Chùa
ở bên sườn đồi phía bắc của nói
Zhongnan, cách huyện Zhouzhi 15 km về phía đông bắc, và
cáhc thành phố Tây An 70 km.
[40] dặm là một đơn vị
đo chiều dài của Trung Quốc (1 dặm bằng 0.5
km).
[41] Hoàng Đế Cao Tổ
của triều đại nhà Đường, tên hiệu
là Lư Uyên, (khoảng 618-626 sau CN), vị hoàng đế
đầu tiên của nhà Đường.
[42] Các công xă Nhân Dân, trước đây
là cao nhất trong ba cấp quản trị ở các khu
vực nông thôn từ năm 1958 tới khoảng 1982 ở
Cộng ḥa nhân dân Trung Quốc. Các công xă có các chức năng
quản lư, chính trị và kinh tế. Chúng là các đơn
vị tập thể lớn nhất và được chia
nhở hơn thành các đội sản xuất và đoàn
sản xuất. Sau năm 1982, chúng đă được
thay bằng các thành phố nhỏ.
[43] Xem [36].
[44] Nội dung của Đại
Thừa Niết Bàn Kinh là kinh Đại thừa cuối
cùng của Phật, được giảng trong những
ngày cuối cùng của ông trên trái đất. Nó cho là
cấu thành tinh túy của tất cả các kinh Đại
Thừa.
[45] Từ Taisho Tripitaka tập. T01,
số 7, Đại Thừa Đại Niết Bàn kinh.
Dịch tạm thời sẽ được cải
tiến.
[46] Từ Lư Thuyết và Thực Hành
Đàn Áp Tôn Giáo của Đảng Cộng Sản Trung
Quốc của Bai Zhi. Website: http://www.dajiyuan.com/gb/3/4/15/n300731.htm
(tiếng Trung).
[47] Giải thoát biểu thị Niết
bàn và cũng là tự do đạt được nhờ
Định, nó cũng nhằm thoát khỏi sự luân
hồi.
[48] Niết bàn, trong Đạo Phật
hoặc Ấn độ giáo, là một trạng thái an
lạc và hài ḥa vượt khỏi đau khổ và t́nh;
một trạng thái duy nhất linh hồn bất diệt.
[49] Một chiến dịch Đàn Áp
Phản Cách Mạng đă xử lư các thành viên của xă
hội tâm linh, hội tôn giáo, và Quốc Dân Đảng
một cách bạo lực vào đầu năm 1951.
[50] “Cuộc chiến chống Mỹ
bành chướng và giúp đỡ Triều Tiên”, như
ĐCSTQ gọi nó, nổ ra vào năm 1950.
[51] Ngô Diệu Tông (1893-1975 sau CN) và
những người khác đă xuất bản cái gọi là
“Các phương tiện cho Cơ Đốc giáo Trung
Quốc sử dụng các nỗ lực để xây
dựng Trung Quốc mới” cũng được gọi
là “Bản tuyên ngôn sáng tạo của Tam tự” vào năm
1950 và đă thành lập giáo hội “Tam Tự” sau đó.
[52] Đại Hội Trường Nhân
Dân, xây vào năm 1959, tại phía tây của quảng
trường Thiên An Môn. Là nơi hội họp của
Quốc hội Trung Quốc.
[53] Xem [46].
[54] Áo cà sa, là áo choàng của thày tu.
[55] Chương Bá Quân (1895-1969 sau
CN) là một trong những người sáng lập “Liên
đoàn dân chủ Trung Quốc” một đảng dân
chủ ở Trung Quốc. Ông đă bị Mao Trạch
Đông liệt vào “cánh hữu số một” vào năm 1957,
và là một trong những “người cánh hữu” đă
không được khôi phục thanh danh sau Cách Mạng
Văn Hóa.
[56] Hoàng Đế Huy Tông đời
Tống, hiệu Zhao Ji (khoảng 1100-1126 sau CN).
[57] Tô Đông Pha, (1036-1101 sau CN), một
nhà thơ, văn Trung Quốc nổi tiếng đời
Tống. Một trong “Tám đại sư phụ văn xuôi
đời Đường và Tống”.
[58] Văn Trưng Minh, (1470-1559 sau CN)
họa sĩ Trung Quốc đời Minh.
[59] Đường Bá Hổ, (1470-1523)
là một học giả, họa sĩ, nhà thơ nổi
tiếng đời Minh.
[60] cân là một đơn vị
trọng lượng sử dụng ở Trung
Quốc.Một cân bằng 0.5 kg.
[61] Xem [36].
[62] Từ một bài thơ của Mạnh
Hạo Nhiên (689 – 740 sau CN) là một nhà thơ nổi
tiếng đời Đường.
[63] Vương Hi Chi (321-379 sau CN),
là nhà thư pháp nổi tiếng nhất trong lịch sử
đời Đường.
[64] Lan Đ́nh Tập Tự nguyên
thủy, được cho là viết bởi Vương Hi
Chi tại thời kỳ đầu sự nghiệp thư
pháp của ông (51 tuổi, 353 sau CN), được công
nhận chung như là phần quan trọng nhất trong
lịch sử thư pháp Trung Quốc.
[65] Ngô Thừa Ân (1506?-1582? sau CN),
Nhà thơ, nhà tiểu thuyết Trung Quốc đời Minh,
tác giả của Tây Du Kư, một trong bốn tiểu
thuyết nổi tiếng nhất Trung Quốc.
[66] Ngô Kính Tử (1701-1754 sau CN),
một nhà văn đời Thanh, tác giả của Học
giả (Rulin Waishi, cũng được biết như là
Lịch sử không chính thức của giới học giả).
[67] Văn xuôi viết bởi Ouyang Xiu
(1007-1072 sau CN), một trong “Tám đại sư phụ
văn xuôi đời Đường và Tống” Ouyang Xiu
tự gọi ḿnh là “túy ông”.
[68] Tên khác của Hồng Quân.
[69] The Yongle Encyclopedia or Yongle Dadian
được ủy thác bởi Hoàng đế đời
Minh Trung Quốc Yongle vào năm 1403. Nó được coi là
cuốn bách khoa lớn nhất và sớm nhất thế.
Hai ngàn học giả đă làm việc trong dự án, tích
hợp 8000 văn bản từ thời cổ đại
tới thời nhà Minh. Cuốn Bách khoa, hoàn thành vào năm
1408, bao gồm trên 22000 tập viết tay chiếm 40 mét
khối.
[70] Lâm
Bưu (1907-1971), một lănh tụ cao cấp trong
Đảng Cộng sản, dưới thời Mao
Trạch Đông, đă là uỷ viên Bộ Chính trị, là
Phó Chủ tịch nước (1958), và Bộ trưởng
Bộ Quốc pḥng (1959). Lâm Bưu được coi là
kiến trúc sư của Cách mạng Văn hoá. Lâm Bưu
từng được chọn là người kế
nhiệm Mao Trạch Đông năm 1966 nhưng sau đó
bị thất sủng vào năm 1970. Thấy bị
xuống dốc, Lâm Bưu (theo một số báo cáo) đă
định làm một vụ tầy đ́nh và định
đào tẩu sang Liên Xô sau khi âm mưu bại lộ. Khi
chạy trốn khỏi trừng phạt, máy bay đă
nổ tại Mông Cô, kết thúc cuộc đời Lâm
Bưu.
[71] “Lương Hiệu” đại biểu cho một nhóm
cây bút đă được chỉ định.
[72] Hoàng Đế Tần Thủy
Hoàng (259-210 trước CN), hiệu Doanh Chính, là
vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử
nước Trung Quốc thống nhất. Ông đă
chuẩn hóa luật pháp, ngôn ngữ viết, tiền
tệ, trọng lượng và đo lường, và đă
cho xây Vạn Lư Tường Thành. Tất cả đều
những thứ này ảnh hưởng sâu và lớn lên lịch
sử và văn hóa Trung Quốc. Ông đă ra lệnh
đốt sách của nhiều trường phái bao gồm
cả Nho gia và Đạo gia, và một lần đă r a
lệnh chôn sống 460 nhà Nho. Những sự kiện
lịch sử này được gọi là “đốt sách
và chôn Nho sĩ” Ông đă xây một lăng tẩm khổng
lồ cho chính ḿnh và Đội quân canh mồ bằng
đất nung của Hoàng Đế Tần
được biết đến như là kỳ quan
thứ 8 của thế giới.
[73] Từ Các tác phẩm của Mao
Trạch Đông 1949-1976 (tập 2)
[74] “Chỉnh lại phong cách làm việc
của Đảng” (1942) của Mao.
[75] “Nói chuyện tại diễn đàn
Diên An về văn học và nghệ thuật” (1942) của
Mao.
[76] Vũ Huấn (1838-1896 sau CN),
tên gốc là Wu Qi, sinh tại Tangyi thuộc tỉnh Sơn
Đông. Mất cha từ thủa nhỏ, gia đ́nh ông
rất nghèo. Ông phải xin thức ăn để nuôi
mẹ và được biết đến như là
người ăn mày hiếu thảo. Sau khi mẹ ông
mất, ăn xin trở thành phương tiện kiếm
sống duy nhất của ông. Ông mở các trường
học miễn phí bằng tiền tích lũy xin
được.
[77] Hồ Phong (1902-1985), nhà phê b́nh
văn chương và học giả, chống lại chính
sách văn chương giáo điều của ĐCSTQ. Ông
đă bị khai trừ khỏi Đảng năm 1955 và
kết án 14 năm tù.
[78] Từ Các Tác phẩm chọn lọc
của Mao Trạch Đông (Tập. 5), “Sự t́nh đang
thay đổi” (1957)
[79] Qian Bocheng, Văn hóa phương
Đông, ấn bản thứ tư (2000).
[80] Cuộc vận động Ngày
mồng 4 tháng 6 của sinh viên được khởi
xướng bởi các sinh viên đại học tán thành
cải tạo dân chủ ở Trung Quốc giữa 15 tháng
4 và ngày 4 tháng 6 năm 1989. Sau đó nó đă bị đàn áp
bởi Quân đội giải phóng nhân dân, và
được cộng đồng thế giới gọi
là cuộc tàn sát ngày mùng 4 tháng 6.
[81] “Pḥng 610”: một tổ chức
được tạo ra chuyên khủng bố Pháp Luân Công,
có quyền lực tuyệt dối tại mỗi cấp
quản lư trong đảng và tất cả các hệ
thống pháp luật và chính trị khác.
[82] “Xuất thân luận” (or bloodline or
pedigree) là một lư thuyết tuyên bố rằng bản tính
của một người là do tầng lớp của gia
đ́nh mà anh ta sinh ra quyết định.
[83] Từ bài hát của nhạc kịch
hiện đại “Huyền thoại đèn lồng
đỏ”, một “Vở kịch mẫu” chính thức
phổ biến được phát triển trong thời
“Đại cách mạng văn hóa” (1966-76).
[84] Mẫu là một đơn
vị đo diện tích ở Trung Quốc.
[85] Học thuyết tam đại biểu của
Giang Trạch Dân được nhắc đến lần
đầu trong bài phát biểu của Giang tháng 2 năm 2000,
đại ư là Đảng cộng sản Trung Quốc
phải luôn luôn (1) đại biểu cho quyền lợi
dân tộc Trung Hoa, (2) đại biểu cho sự phát
triển hiện đại, (3) đại biểu cho
nền văn hoá tiên tiến của Trung Quốc.
[86] Diễn văn mở đầu Phiên
họp thứ nhất của Quốc hội nhân dân toàn
quốc lần thứ nhất của Cộng ḥa nhân dân
Trung Hoa (Tháng 9 năm 1954).
[87] “Bệnh mắt đỏ”
được sử dụng ở đây để mô
tả một người mà khi thấy người khác làm
tốt hơn ḿnh, anh ta liền cảm thấy bất b́nh
và khó chịu, và nghĩ rằng anh ta đáng lẽ phải
là người đang làm tốt hơn.
[88] Một “Vở kịch mẫu” chính thức phổ
biến được phát triển trong thời
“Đại cách mạng văn hóa” (1966-76). Trong huyền
thoại dân gian Trung Quốc, Bạch Mao Nữ là
một câu chuyện về một tiên nữ sống trong
một hang động có các khả năng siêu
thường có thể thưởng cho những
người làm việc tốt và phạt những kẻ
làm điều ác, ủng hộ chính nghĩa và trấn áp tà
ác. Tuy nhiên, trong các vở kịch, opera và ba-lê ở Trung
Quốc hiện đại cô bị mô tả như một
cô gái buộc phải chạy trốn đến một cái
hang sau khi bố cô bị đánh đến chết v́
từ chối không gả cô cho một người
địa chủ già. Cô bị bạc tóc v́ thiếu dinh
dưỡng. Dưới ng̣i bút của các nhà văn theo
ĐCSTQ, huyền thoại này đă bị biến thành
một trong những vở kịch “hiện đại”
nổi tiếng nhất ở Trung Quốc nhằm
để kích động ḷng hận thù giai cấp
đối với những người chủ sở
hữu đất đai.
[89] Địa Đạo Chiến,
một phim đen trắng làm năm 1965 trong phim ĐCSTQ
tuyên bố rằng quân du kích của ḿnh ở Nội
địa Trung Quốc đă đánh quân xâm lược
Nhật qua nhiều đường hầm dưới ḷng
đát trong những năm 1940.
[90] Địa Lôi Chiến, một
bộ phim đen trắng làm năm 1962 trong phim ĐCSTQ
tuyên bố rằng quân du kích của ḿnh ở tỉnh Hà
Bắc đă đánh quân xâm lược Nhật Bản
bằng ḿn tự làm lấy trong những năm 1940.
[91] Một cách hành văn quy định
trong các bài kiểm tra tuyển dụng công chức nhà
nước. được biết là cứng nhắc
về h́nh thức và nghèo nàn về nội dung.
[92] Đại Đói Kém 1959-1961 ở
Trung Quốc là nạn đói lớn nhất trong lịch
sử con người. Con số ước tính
“người chết bất thường” trong nạn
đói trải từ 18 tới 43 triệu.
[93] Xem [7].
[94] Của Mao Trạch Đông (1942).
[95] Biến Động 4 tháng Năm là
biến động lớn đầu tiên trong lịch
sử Trung Quốc hiện đại, bắt đầu
từ mùng 4 tháng 5 năm 1919.
[96] Chen Guili, Cảnh báo của sông Hoài
(1995).
[97] Từ “Mở đầu xem xét Li
Yuan trở về Bàn Cổ” của Han Yu (768-824 sau CN),
một trong “Tám đại sư phụ văn xuôi
đời Đường và Tống”.
[98] Đào Uyên Minh (365-427 sau CN),
cũng được biết là Tao Qian, một nhà thơ
lớn trong văn hóa Trung Quốc.
Copyright © 2004 DAJIYUAN.COM, báo Hoa Ngữ
DAJIYUAN