|
|
Năm 1840, các
sử gia nh́n nhận rằng
đó là cái mốc đánh
dấu khởi điểm của lịch sử Trung
Quốc đang chuyển từ thế kỷ Trung Cổ
đi sang hiện đại hóa. Bắt đầu từ
đó, nền văn minh Trung Hoa đại khái đă
trải qua bốn lần ứng phó cho các trận sóng băo
khiêu chiến. Ba trận sóng băo khiêu chiến đầu tiên
là: Liên quân Anh-Pháp xâm chiếm Bắc Kinh hồi đầu
thập niên 1860; chiến tranh Trung Quốc-Nhật Bản
vào năm Giáp Ngọ 1894, và chiến tranh Nga-Nhật ở
vùng đông bắc Trung Quốc vào năm 1906. Đối
với 3 cuộc khiêu
chiến này, Trung Quốc đă đáp ứng bằng phong
trào Tây hóa với sự nhập cảng hàng hóa hiện
đại và vũ khí, cùng với sự cải cách chế
độ ( tức là ban hành Hiến Pháp sửa đổi
năm Mậu Tuất 1898 [1], và Đại Thanh Lập
Hiến vào cuối đời nhà Đại Thanh ), và sau
đó là Cách Mạng Tân Hợi năm 1911 [2].
Sau Thế
Chiến Thứ Nhất, mặc dù thuộc phe thắng
trận, nhưng lợi ích của Trung Quốc vẫn không
được những cường quốc trông coi
đến. Thời bấy giờ, nhiều người
Trung Hoa cho rằng ba lần ứng phó đầu cho các
trận sóng băo nói trên đă hoàn toàn thất bại. Do
vậy cuộc Vận Động mùng 4 tháng 5 [3] xuất
hiện, từ đó mà bắt đầu lần ứng
phó thứ tư cho các trận sóng băo này, mà cũng là sự
đáp ứng cuối cùng trên một b́nh diện; b́nh diện văn hóa
được hoàn toàn chuyển sang ‘Tây hoá'. Theo sau đó,
là cách mạng cực đoan bắt đầu, tức là
sự vận động cho chủ nghĩa cộng
sản.
Trọng tâm của bài b́nh luận
này là nói về kết quả của một sự ứng
phó sóng băo cuối cùng của Trung Quốc đối
với cuộc vận động cho chủ nghĩa
cộng sản và Đảng cộng sản. Nh́n vào
lịch sử 160 năm vừa qua của Trung Quốc
để phân tích xem, với gần 100 triệu
người dân thường bị chết mờ ám,
hầu hết tất cả văn hóa và văn minh
truyền thống của dân
tộc Trung Quốc bị tàn phá, dù đó là chọn lựa
của người dân Trung Hoa hay là bị bên ngoài
cưỡng bức, th́ kết quả thực sự là
như thế nào?
“Bọn Cộng
sản chẳng thèm che giấu quan điểm và ư
đồ của bọn họ. Bọn chúng công khai tuyên
bố rằng mục đích của chúng chỉ có thể
đạt được bằng cách dùng bạo lực
lật đổ toàn bộ chế độ xă hội
hiện tại”[4], đoạn cuối cùng bản Tuyên
ngôn của Cộng Sản
kết luận như thế. Bạo lực là
thủ đoạn mà Đảng cộng sản dùng
để cướp đoạt chính quyền, và cũng là
thủ đoạn duy nhất. Đó là cái nhân di truyền
đầu tiên được quyết định từ
ngày Đảng cộng sản chào đời cho
đến hôm nay.
Thực ra, Đảng cộng sản
đầu tiên trên thế giới, phải nhiều năm
sau khi Karl Marx qua đời mới được thành
lập. Năm thứ hai sau Cách mạng Tháng Mười
của Nga (1917), Đảng cộng sản Nga (Bôn-sê-vích)
đă chính thức khai sinh, đó là tiền thân của
Đảng cộng sản Liên Xô sau này. Đảng
cộng sản này sinh ra trong sự thực hành bạo
lực đấu tranh vũ trang đối với các
" kẻ thù giai cấp", đồng thời đă
liên tục dùng bạo lực để đàn áp những
người của chính ḿnh và những người dân
thường để duy tŕ sự tồn tại của
Đảng. Riêng trong cuộc thanh trừ nội bộ
của Đảng cộng sản thời Stalin vào
những năm 1930, Đảng cộng sản Liên Xô đă
tàn sát hơn 20 triệu
người, những người mà họ gán cho tội
danh như ‘gián điệp’, hoặc ‘phản quốc’, và
bất cứ ai không đồng ư kiến.
Đảng
cộng sản Trung Quốc, khi thành lập chính là một
chi bộ của Cộng sản Quốc tế Đệ
Tam mà chịu sự khống chế của Đảng
cộng sản Liên Xô, nên tự nhiên đă kế thừa
loại truyền thống bạo lực này. Riêng trong
thời kỳ nội chiến giữa Đảng Cộng
Sản và Quốc dân Đảng của Trung Quốc,
từ năm 1927 đến năm 1936, dân số tỉnh
Giang Tây đă giảm từ hơn 20 triệu xuống khoảng 10 triệu. Chỉ riêng
con số ấy đă nói lên sự thiệt hại mà
Đảng cộng sản Trung Quốc gây ra bằng
bạo lực.
Nếu như nói
rằng, bạo lực có thể không tránh khỏi trong
chiến tranh của chính quyền khủng bố, th́ trên
thế giới chưa bao giờ có một chính quyền nào
mà trong thời ḥa b́nh , vẫn cứ tiếp tục yêu
chuộng bạo lực như
Đảng Cộng sản. Tính từ năm 1949
đến nay, số người dân Trung Quốc bị tàn
sát do bạo lực của Đảng Cộng sản Trung
Quốc đă vượt quá số người chết
trong thời chiến từ năm 1927 đến năm
1949.
Một trong
những ví dụ điển h́nh về thành tích khát máu
của Đảng Cộng sản
Trung Quốc mà ai cũng biết, là sự ủng
hộ toàn lực vũ trang cho Khờ-me Đỏ. Sau thời Khờ-me Đỏ
nắm quyền, một phần tư người dân
Căm-Bốt, trong đó đại đa số là
người di dân Hoa Kiều và con cháu của họ, đă
bị tàn sát. Đến tận hôm nay chính quyền
Đảng cộng sản Trung Quốc vẫn không
ngừng ngăn cản cộng đồng quốc tế
đưa Khờ-me Đỏ ra công lư, v́ mục đích
đương nhiên là muốn che đậy vai tṛ lừng
danh của Đảng cộng sản Trung Quốc trong
cuộc diệt chủng ấy.
Điều
tất yếu phải nêu ra là những chính quyền tàn
bạo và các căn cứ vơ trang tàn bạo nhất trên
thế giới hiện nay đều có quan hệ mật
thiết với Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Không chỉ riêng có Khờ-me Đỏ của
Căm-Bốt, mà c̣n có Đảng cộng sản Nam
Dương, Cộng sản Phi luật Tân, Cộng sản
Mă-lai, Cộng Sản Việt Nam, Cộng Sản Miến
Điện, Cộng Sản Lào,
Đảng Cộng sản Nê-pal, vân vân… tất cả
được thành lập là đều do bàn tay của
Đảng cộng sản Trung Quốc ủng hộ,
chống đỡ. Nhiều lănh tụ của các
Đảng cộng sản này là người Trung Hoa, mà
một số trong đó giờ đây vẫn đang
ẩn nấp tại Trung Quốc.
Hơn nữa
trên thế giới, lấy chủ nghĩa Mao Trạch
Đông làm tôn chỉ cho Đảng cộng sản c̣n có
Đường Quang Minh của Nam Phi, Hồng Quân của
Nhật bản. Những tổ chức tàn bạo như
vậy đều bị cộng đồng thế
giới phỉ nhổ và lên án.
Một trong
những lư luận ban đầu mà chủ nghĩa cộng
sản dùng là Tiến Hoá Luận. Đảng cộng
sản dùng sự cạnh tranh giữa các loài, để suy
diễn ra đấu tranh giai cấp trong sự tiến hóa
của xă hội. Họ cho rằng đấu tranh giai
cấp là động lực duy nhất giúp xă hội phát
triển tiến bộ. Bởi vậy "Đấu
tranh" đă trở thành "Tín Ngưỡng" chủ
yếu để duy tŕ sự sinh tồn của chính
quyền Đảng cộng sản. Một trong những câu
nói nổi tiếng của Mao Trạch Đông — “ Với tám
trăm triệu người, làm sao mà không đấu tranh”
— đă nói trắng ra cái lư luận để sinh tồn
này.
Mao Trạch
Đông c̣n có một câu nổi tiếng tương
tự rằng "
Đại Cách mạng Văn hoá cần phải xẩy ra mỗi lần trong 7 hay 8
năm”[5]. Sử dụng bạo lực nhiều lần
lặp lại là một trong những thủ đoạn
quan trọng bậc nhất của chính quyền
Đảng cộng sản nhằm duy tŕ quyền thống
trị. Mục đích của
bạo lực là tạo ra sự sợ hăi. Mỗi
lần vận động đấu tranh đều là
một lần Đảng Cộng sản huấn luyện
sự khủng hoảng tinh thần của người
dân, làm cho nhân dân run sợ trong ḷng mà khuất phục, làm
họ dần dần trở thành nô lệ của sợ
hăi.
Hiện nay
chủ nghĩa khủng bố đă biến thành kẻ thù
số một của toàn thể thế giới tự do và
văn minh. Nhưng Đảng Cộng sản không hề
từ bỏ chủ nghĩa khủng bố bằng
bạo lực, mà trái lại c̣n triển khai sâu rộng, lâu
dài hơn nữa dựa vào bộ máy chính quyền đương
thời. Nó đă có quy mô lớn hơn, có sức tàn phá
mạnh mẽ hơn. Ngày nay đă sang thế kỷ 21
rồi, chúng ta không thể quên được tính chất
di truyền này của Đảng cộng sản, bởi
v́ đến lúc thích hợp, điều này nhất
định đối với tương lai của
Đảng Cộng Sản sẽ có tác dụng quyết
định cho nó hướng đi như thế nào.
Tŕnh độ
văn minh của nhân loại có thể được
đo lường qua mức độ mà bạo lực
được sử dụng trong chế độ. Xă
hội của chính quyền Cộng sản, hiển nhiên là
một lần nữa bước lùi lại rất xa
với văn minh của nhân loại. Nhưng tiếc thay,
Đảng Cộng Sản lại có thể thành công trong
sự việc người đời tưởng chúng
đang trên đà tiến bộ. Những người này
cho rằng, sử dụng bạo lực, không những
đưa đến sự tiến bộ của xă
hội mà c̣n là một quá tŕnh tất yếu và tự nhiên.
Sự chấp nhận bạo
lực này, phải nói
rằng, chính là kết quả của việc vận
dụng lời dối trá lường gạt có một
không hai của Đảng cộng sản. V́ vậy lường
gạt và dối trá là
một cái nhân di truyền khác của Đảng cộng sản.
“Từ thủa
bé thơ, chúng ta đều thấy nước Mỹ là
một quốc gia đặc biệt đáng mến. Chúng
ta tin điều này, một phần v́ trên thực tế
nước Mỹ chưa từng chiếm cứ Trung
Quốc, cũng chưa hề phát động chiến tranh
với Trung Quốc. Suy nghĩ sâu hơn nữa, th́ người Trung Quốc luôn mang
ấn tượng tốt đẹp về Mỹ
quốc, chính v́ dân tính của người dân Mỹ phát
xuất ra phong độ dân chủ và một tâm rộng
lượng.”
Đó là một
đoạn văn trích trong xă luận đăng ngày 4 tháng
7 năm 1947 trên ‘Tân Hoa nhật
báo’ (tờ báo chính thức
của Đảng cộng sản Trung Quốc). Nhưng
chỉ vỏn vẹn 3 năm sau đó, Đảng
Cộng sản Trung Quốc đă gởi quân đến
đánh nhau với quân Mỹ tại Bắc Hàn, và
người dân Mỹ đă được Đảng
Cộng sản Trung Quốc mô tả như những
phần tử của chủ nghĩa đế quốc tà
ác nhất trên thế giới. Bất kể người
Trung Quốc nào đến từ Trung Hoa Đại
Lục, nếu đọc được bài xă luận này,
viết 50 năm trước đó của Đảng
cộng sản Trung Quốc, cũng phải cảm
thấy vô cùng kinh ngạc. Đảng cộng sản Trung
Quốc đă cấm ngặt tất cả xuất bản
thuộc loại văn chương tương tự có
liên quan đến bài xă luận như thế, mà chỉ
phát hành các bài đă được Đảng viết
lại.
Từ ngày
nắm quyền, Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn
diễn đi diễn lại thủ đoạn
tương tự trong mỗi một phong trào , gồm có
cuộc thanh trừng Phản-cách mạng (1950-1953), công ty
quốc gia và tư nhân Hợp Doanh (1954-1957), thanh trừng
phe Cánh Hữu (1957), Đại Cách mạng Văn hoá
(1966-1976), thảm sát sinh viên học sinh ngày 4 tháng 6 năm
1989 tại Thiên An Môn, và gần đây nhất là cuộc
đàn áp Pháp Luân Công từ năm 1999. Tai tiếng nhất
phải kể đến cuộc đàn áp phần tử
trí thức năm 1957. Đảng cộng sản Trung
Quốc kêu gọi các phần tử trí thức phát biểu
ư kiến của họ, rồi sau đó lấy ngay
những bài họ viết làm ‘bằng chứng’ để
khép họ vào tội ‘theo Cánh Hữu’ để thanh
trừng họ. Đến khi bị người ta phê phán
tại sao lại dùng “âm mưu” như thế, th́ Mao
Trạch Đông nói thẳng: “Đó không phải âm mưu,
mà là ‘dương’ mưu — tao làm công khai đấy chứ.”
Lường
gạt và dối trá
đóng vai tṛ cực kỳ đắc lực giúp
Đảng cộng sản chiếm đoạt và bảo
vệ quyền lực. Từ xưa đến nay,
niềm tin tưởng quan trọng nhất của các
phần tử trí thức Trung Quốc vẫn là lịch
sử của ḿnh. Trung Quốc là một quốc gia có lịch
sử được ghi chép lâu đời nhất, và hoàn
chỉnh nhất trên thế giới. Người Trung Hoa
vẫn lấy lịch sử làm tấm gương
phản chiếu để phán đoán hiện thực,
thậm chí c̣n noi theo những nhân vật mẫu mực
trong lịch sử để tự răn dạy bản
thân và nâng cao đạo đức. V́ thế, bóp méo,
sửa đổi và che giấu sự thật của
lịch sử cũng là thủ đoạn trọng
yếu để thống trị của Đảng
Cộng Sản Trung Quốc. Các giai đoạn lịch
sử từ thời Xuân Thu Chiến Quốc xa xưa
(770-221 trước Công Nguyên) cho đến Cách mạng
Văn hoá, đều bị Đảng cộng sản
Trung Quốc không ngừng che giấu, bóp méo và sửa đổi chuyện
kể lại bằng
những thủ doạn tuyên truyền lừa mị.
Lịch sử trong các sách mới xuất bản suốt 55
năm qua (từ 1949) đều bị sửa lại.
Tất cả những cố gắng để khôi phục
lại lịch sử nguyên gốc đều bị
Đảng Cộng sản Trung Quốc cấm ngặt và
diệt trừ.
Khi bạo lực không đủ
mạnh để duy tŕ quyền lực và che đậy
các sửa chữa , th́ lường gạt và dối trá
lập tức được Đảng cộng sản
dùng đến. Dối trá là một mặt khác của bạo lực, và cũng là cái bàn
đạp ngon trớn cho bạo lực.
Phải nh́n
nhận rằng, dối trá và lường gạt không
phải do Đảng cộng sản phát minh chế
tạo ra, chẳng qua chỉ là Đảng cộng sản
sử dụng thủ đoạn lưu manh tự cổ
chí kim này một cách công khai mà không biết hổ thẹn mà
thôi. Đảng cộng sản Trung Quốc hứa hẹn
đất đai cho nông dân, hứa nhà máy cho công nhân,
hứa tự do và dân chủ cho các phần tử trí
thức, hứa hẹn hoà b́nh. Nhưng đến nay không
hề có lời hứa nào được thực hiện.
Một thế hệ người Trung Quốc bị
lường gạt và đă qua đời, lại một
thế hệ khác của người Trung Quốc nay
cũng đang bị Đảng cộng sản mê hoặc
bằng bưng bít thông tin và tuyên truyền lường
gạt. Đây chẳng phải là niềm đau
thương lớn nhất và cũng là nỗi bất
hạnh nhất của dân tộc Trung Hoa hay sao?
Trong cuộc
biện luận tranh cử tổng thống Mỹ năm
2004 vừa qua, có một ứng cử viên phát biểu
rằng, người ta có thể thay đổi chiến
lược về vài vấn đề khi cần thiết,
nhưng họ không thể, nói chung, chuyển đổi “
niềm tin” hoặc “nguyên tắc” của vấn đề
mà họ nh́n nhận, nếu không người này là
người “không thể tin được”[6]. Câu nói này
thực sự làm rơ ràng một tính chất.
Đảng
cộng sản chính là điển h́nh về mặt này.
Lấy Đảng cộng sản Trung Quốc làm ví
dụ, th́ từ ngày thành lập 80 năm trước
đến nay, đă trải qua 16 đại hội với
đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng
Sản Trung Quốc, mà cũng đă thay đổi, sửa
chữa luật lệ của Đảng 16 lần. Trong 50
năm sau khi chiếm đoạt chính quyền ,
Đảng cộng sản Trung Quốc đă có 5 lần
sửa đổi lớn Hiến Pháp của Trung Quốc.
Lư tưởng
của Đảng cộng sản là sự công bằng
của xă hội, để rồi cuối cùng thực
hiện theo chủ nghĩa cộng sản. Nhưng
dưới sự thống trị của Đảng
cộng sản, Trung Quốc hôm nay là một trong những
quốc gia phân biệt giầu nghèo nhất trên thế
giới. Rất nhiều đảng viên Cộng sản
giàu sụ, trong khi quốc gia có khoảng 800 triệu
người dân đang sống trong cảnh bần cùng.
Tư
tưởng của Đảng cộng sản Trung
Quốc ban đầu là chủ nghĩa Karl Marx-Lenin. Sau
đó nhồi thêm tư tưởng của Mao Trạch
Đông. Rồi đắp thêm vào đó là lư luận của
Đặng Tiểu B́nh. Và giờ đây lại có
thuyết “tam đại biểu” của Giang Trạch Dân
được gắn lên nữa. Thực ra ngay tư
tưởng và chủ nghĩa của Mác-Lê và Mao so với
lư luận của họ Đặng và thuyết 'Tam
đại biểu' của họ Giang th́ đă khác nhau
như trâu với ngựa, không những thế chúng c̣n trái
lại và cách xa nhau vạn dặm, vậy mà Đảng
cộng sản Trung Quốc, một khi thổi phồng
chúng lên, rồi đặt bệ tôn thờ để
quỳ lạy các thứ ấy cùng nhau được, th́
sự việc này quả thực tự cổ chí kim
chỉ thấy có một.
Các lư luận phát
sinh diễn tiến của Đảng Cộng sản
phần lớn là trái ngược với nhau. Đảng cộng sản
chưa hề có tổ quốc, mà lại xây dựng
thuyết 'toàn cầu đại đồng', đến
hôm nay lại là chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
Ban đầu Đảng tịch thu mọi tài sản
tư hữu, đả đảo giai cấp tư sản
bóc lột, rồi đến hôm nay chính sách của
Đảng cộng sản là kết nạp các nhà tư
bản vào Đảng. Nguyên tắc cơ bản của
Đảng cộng sản đổi trắng thay đen
thật chớp nhoáng khỏi cần nói. Trên lịch sử
lập nghiệp và duy tŕ chính quyền, hôm nay Đảng
sẵn sàng vứt bỏ nguyên tắc đang
được tuyên truyền hôm qua, và ngày mai, có thể
Đảng lại có một lập trường nguyên
tắc mới. Thực ra dù có biến đổi thế
nào đi nữa, th́ mục tiêu rơ ràng, chắc chắn của
Đảng cộng sản vẫn là tước
đoạt và duy tŕ chính quyền, và hưởng thụ
quyền lực trên sự lũng đoạn tuyệt
đối đến xă hội.
Trong lịch
sử của Đảng Cộng sản Trung Quốc,
đă có hơn mười phen đấu tranh về
đường lối được coi là ‘sống
chết’. Thực ra những phen đấu tranh đó không
có ǵ khác hơn là những đợt thanh trừng nội
bộ sau mỗi lần Đảng cộng sản thay
đổi nguyên tắc và lập trường.
Cần phải nói rơ là, mỗi
một lần lập trường nguyên tắc
được thay đổi là đều xẩy ra khi
Đảng cộng sản Trung Quốc đối diện
với nguy cơ khủng
hoảng không tránh khỏi mà có liên quan đến việc
hợp pháp hoá và vấn đề sống c̣n của
Đảng. Lần nào Đảng cộng sản thỏa
thuận nhượng bộ , như là — hợp tác với
Quốc Dân Đảng, ngoại giao theo hướng thân
Mỹ, cải cách và cởi mở kinh tế, đẩy
mạnh chủ nghĩa dân tộc —cũng đều v́
muốn chiếm đoạt
hoặc củng cố vững chắc quyền
lực. Cái chu kỳ tuần hoàn của mỗi một
lần "Đàn áp -
Vuốt ve" cũng không phải không nguyên do mà phát sinh
Tây phương
có câu ngạn ngữ rằng: chân lư là cần phải kiên
tŕ không đổi, c̣n dối trá là vĩnh viễn biến
hoá. Quả là rất đúng!
Đảng
cộng sản Trung Quốc là đảng phái chính trị
theo thể thức của Lê-nin. Từ ngày thành lập,
đă xác lập ra ba đường lối lớn
để xây dựng cho Đảng: đường
lối chính trị, đường lối tư
tưởng, và đường lối tổ chức.
Diễn đạt nôm na cho dễ h́nh dung là thế này:
đường lối tư tưởng là cơ sở
triết học của Đảng cộng sản,
đường lối chính trị tức là xác lập
mục tiêu, rồi sau đó lấy h́nh thức tổ
chức nghiêm nhặt để thực hiện mục tiêu
này .
Đảng viên
của Đảng cộng sản cho đến nhân dân
của xă hội cộng sản , đ̣i hỏi phải
tuyệt đối phục tùng. Đó chính là toàn bộ
nội dung của đường lối tổ chức.
Ở Trung
Quốc, người ta nói chung đều biết
đến hai đặc tính quan trọng về tư cách
con người của một đảng viên Đảng
cộng sản. Tại gia đ́nh và hoàn cảnh riêng tư,
một đảng viên Đảng Cộng sản vẫn
có đầy đủ ‘nhân tính’ như một con
người b́nh thường, buồn vui hờn giận,
có ưu điểm và khuyết điểm của con người. Họ có
thể là cha mẹ, là vợ chồng, là bè bạn… Nhưng
đặt lên trên những nhân tính này, chính là ‘đảng
tính’, mà được nhấn mạnh nhất, của
Đảng cộng sản. Mà 'đảng tính', theo đ̣i
hỏi của Đảng cộng sản, là vĩnh
viễn vượt trên 'nhân tính' thường t́nh của
con người . 'Nhân tính' trở thành tương đối,
có thể đổi thay, c̣n 'đảng tính’ là tuyệt
đối, và không thể hoài nghi hay khiêu chiến.
Trong thời
kỳ Đại Cách mạng Văn hoá, cha con giết nhau,
vợ chồng đấu nhau, thầy tṛ phản nhau,
mẹ con tố cáo nhau như kẻ thù,… là những
việc thường xảy ra trong quần chúng. Đó là
tác dụng của 'đảng tính' mà nên. Thời kỳ
đầu khi Đảng cộng sản nắm quyền,
có nhiều cán bộ cao cấp của Đảng cộng
sản Trung Quốc bó tay không cứu nổi người
nhà khi người nhà của họ bị liệt kê vào giai
cấp thù địch và bị đàn áp. Như thế
cũng là tác dụng của đảng tính.
‘Đảng tính’
là kết quả của những huấn luyện
trường kỳ do Đảng cộng sản tổ
chức. Loại huấn luyện này được
thực hiện ngay từ thủa nhi đồng một
cách có hệ thống. Tại các trường mẫu giáo
ở Trung Quốc, trẻ em được giáo dục
bằng khen thưởng khi trả lời đúng, mà câu
trả lời thường không theo luân thường
đạo lư và nhân tính. Từ tiểu học, trung học,
cho đến đại học, học sinh phải
học môn chính trị, tuân theo hệ thống tư
tưởng của Đảng cộng sản. Ai không
học theo và không trả lời đúng theo tiêu chuẩn
của Đảng đề ra th́ không thể tốt
nghiệp.
Một
đảng viên, bất kể ư kiến riêng tư của
ḿnh như thế nào, nhưng một khi bày tỏ thái
độ với cương vị của một
đảng viên, th́ tất nhiên phải giữ vững
nhất trí với đường lối 'tổ chức' của
Đảng cộng sản. Với tổ chức nhất
quán từ trên xuống dưới, Đảng cộng
sản Trung Quốc sau cùng thống nhất một tập
đoàn to tướng, nó tựa như một điểm
cao nhất của kim tự tháp, với điều
khiển tuyệt đối từ trên xuống. Đó là
đặc tính kết cấu trọng yếu nhất
của chính quyền Đảng cộng sản, là sự
phục tùng tuyệt đối.
Ngày nay
Đảng cộng sản Trung Quốc đă biến thái
trở thành một tập đoàn chính trị chỉ
biết đấu tranh để bảo tŕ lợi ích
bản thân. Nó từ lâu đă không c̣n theo đuổi
mục tiêu của chủ
nghĩa cộng sản nữa. Nhưng nguyên tắc tổ
chức của Đảng cộng sản không hề thay
đổi , sự đ̣i hỏi phục tùng tuyệt
đối của 'đảng tính' cũng không hề
biến đổi . Mà Đảng này, tự đặt
ḿnh cao hơn hết thảy, cao hơn nhân dân, cao hơn
quốc gia, cao hơn pháp luật; 'đảng tính'
được đặt cao hơn phương thức tồn
tại của nhân loại, hơn cả 'nhân tính' và
điều tự nhiên. Do đó, nó sẵn sàng trừ
sạch tất cả tổ chức hoặc cá nhân nào mà nó
cho rằng có thể nguy hại đến quyền lực
của Đảng hoặc lănh tụ của Đảng,
không phân biệt đó là thường dân hoặc lănh
đạo cao cấp của Đảng cộng sản.
Không giống
như chính quyền của Đảng cộng sản,
tất cả các xă hội của chính quyền mà không
cộng sản, không kể là chuyên chế hay cực
quyền đến mấy, xă hội nào cũng đều
có một bộ phận của những tổ chức
tự phát triển và có các thành phần tự chủ. Xă
hội của Trung Quốc cổ đại, trên thực
chất, là thuận theo kết cấu nhị nguyên. Nông thôn
cũng có tổ chức tự phát triển với ḍng
tộc làm trung tâm, thành thị cũng có tổ chức
tự phát với phường hội ngành nghề làm trung
tâm, c̣n cơ cấu tổ chức từ trên xuống
của vua quan về cơ bản chỉ quản lư công
việc từ cấp huyện trở lên.
Đến
thời hiện đại, Đức quốc xă — có
thể sánh với Đảng Cộng sản về
mức độ hà khắc và cực quyền chuyên chế
— vẫn cho phép có quyền tư hữu, cho phép người
dân có tài sản riêng. Vậy mà các chính quyền của
Đảng cộng sản đều tiêu diệt sạch
những tổ chức tự phát và các thành phần tự
chủ, để thay vào đó là kết cấu tập
trung quyền lực triệt để, ngay từ trên
xuống dưới.
Nếu nói
rằng loại h́nh thái xă hội trước là một
loại do từ dưới lên trên, và để cho các
tổ chức tự phát triển, các thành phần
được tự chủ, trạng thái xă hội
được trưởng thành một cách tự nhiên, th́
như vậy chính quyền của Đảng cộng
sản chính là một loại trạng thái xă hội
phản tự nhiên.
Cái lư lẽ kia
của Đảng cộng sản không chứa đựng
tiêu chuẩn nhân tính phổ biến của con người.
Khái niệm lương thiện và tham ác, tiêu chuẩn pháp
luật và nguyên tắc đă bị bóp méo, thay đổi
một cách tuỳ tiện. Luật của cộng sản
cấm sát nhân, ngoại trừ giết những ai mà
Đảng quyết định là kẻ thù. Hiếu cha
kính mẹ là tốt, nhưng nếu cha mẹ bị
loại vào giai cấp thù địch của Đảng th́
không được hiếu thuận. Nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín, vốn là tốt, ngoại trừ khi Đảng
không muốn hoặc không bằng ḷng . Những tiêu
chuẩn làm người trong truyền thống dân tộc
nay bị Đảng trút đổ và xoá bỏ triệt
để, v́ vậy Đảng cộng sản là phản
nhân tính.
Tại tất
cả các xă hội phi cộng sản, người ta nói
chung đều thừa nhận rằng nhân tính Thiện và
Ác đều cùng có mặt thực sự, sau đó dựa vào
các khế ước cố định để
đạt đến sự cân bằng của xă hội.
Tuy nhiên, xă hội cộng sản không thừa nhận nhân
tính, tức là không thừa nhận cái thiện lương
trong nhân tính và cũng không thừa nhận cái tà ác tham lam
trong nhân tính. Theo cách nói của Karl Marx, xoá sạch quan
niệm Thiện và Ác chính là tiêu trừ triệt để
cái kiến trúc thượng tầng[7] của thế
giới cũ.
Đảng
cộng sản không tin tưởng Thần hay
Thượng đế, và cũng không tôn trọng vạn
vật Tự nhiên. “Đấu với Trời, đấu
với Đất, đấu với Người, hân hoan
vô cùng”, đó là khẩu hiệu của Đảng cộng
sản thời Cách mạng văn hoá. Đấu với
Trời, đấu với Đất, tàn sát nhân dân.
Người Trung
Quốc xưa nay vẫn tin rằng con người
phải hoà hợp làm một với trời đất.
Trong Đạo Đức
Kinh, Lăo Tử giảng rằng: “Người thuận
theo Đất, Đất thuận theo Trời, Trời thuận
theo Đạo, Đạo thuận theo Tự Nhiên”[8], con
người hoà hợp với tự nhiên là một
trạng thái liên tục của vũ trụ.
Đảng
cộng sản cũng là một loại sinh mạng,
nhưng đó là sinh mạng phản Tự Nhiên, phản
Trời, phản Đất, phản Người, là
một loại sinh linh tà ác phản vũ trụ.
Tổ chức
của Đảng cộng sản, bản thân nó không bao
giờ có hoạt động sản xuất hay phát minh ǵ
hết. Một mai, khi nắm được chính quyền,
nó liền gắn bám vào nhân dân để thao túng và khống
chế người dân; khống chế xuống tận
từng đơn vị nhỏ bé nhất trong dân chúng
để giữ ǵn quyền lực, đồng thời
là để lũng đoạn tài nguyên của quốc gia
có được từ ban đầu, và để vơ
vét tài vật của xă hội.
Ở Trung
Quốc, tổ chức của Đảng cộng sản
len lỏi đến tất cả mọi nơi, quản
lư tất cả mọi thứ, nhưng nhân dân không có ai
đă từng thấy được hồ sơ thu chi và
dự tính về tài chính của Đảng cộng
sản. Người ta chỉ thấy có báo cáo dự tính
của quốc gia, của chính quyền địa
phương, dự tính của doanh nghiệp,… chứ không
bao giờ có báo cáo thu chi của Đảng. Từ chính
quyền trung ương cho đến uỷ hội nông
thôn, tất cả viên chức hành chính đều bị
xếp vào cấp dưới viên chức của
Đảng, v́ thế các nhân viên hành chánh phải tuân theo
chỉ thị từ các tổ chức của Đảng
ngang cấp bực. Chi tiêu của Đảng cộng
sản là do các đơn vị hành chánh cung cấp,
nhưng không có hạng mục thống kê báo cáo.
Cách tổ
chức này của Đảng — giống một con quỷ
nhập xác ăn bám to tướng — đang bám chặt
như h́nh với bóng vào từng tế bào đơn nguyên
nhỏ nhất của xă hội Trung Quốc, len vào
từng thớ thịt, găm vào từng mạch máu,
để khống chế và thao túng nhân dân cũng như
để rút kiệt tài nguyên xă hội.
Kết cấu ma
quái của một sinh linh phụ thể như vậy trong
lịch sử nhân loại đă từng có lúc xuất
hiện, hoặc có tính cách cục bộ, hoặc có tính cách
nhất thời, nhưng chưa bao giờ tồn tại
vừa triệt để, rộng khắp, vừa kéo dài
quá lâu, ổn định như Đảng cộng
sản.
Cho nên, nông dân
Trung Quốc mới bần cùng nghèo khổ đến
thế. Họ đang cơng trên lưng không chỉ các viên
chức hành chính theo thông lệ, mà c̣n cả các viên chức
trong tổ chức của Đảng với số
lượng không kém.
Cho nên, công nhân
Trung Quốc lúc nào cũng sợ thất nghiệp, sợ
sa thải đại quy mô đến thế. Các ṿi hút máu
của con quỷ ăn bám kia, bao năm nay vẫn len vào để
tham nhũng, hút cạn tiền vốn của những nhà
máy và cơ sở hạ tầng.
Cho nên, phần
tử trí thức của Trung Quốc mới thấy
tự do sao mà xa vời, khó khăn đến thế. Ngoài
cơ cấu hành chính chủ quản ra, th́ Đảng
cộng sản đang chụp xuống mọi thứ, len
vào mọi nơi, chỉ để giám sát và khống
chế người dân mà không làm ǵ cho nhân dân cả.
Con quỷ
nhập xác ăn bám có một đặc điểm
rất biểu hiện đặc biệt: nó bắt
vật chủ phải chịu khống chế tuyệt
đối về tinh thần, từ đó nó mới có
thể thâu nạp năng lượng để duy tŕ
cuộc sống của ḿnh.
Chính trị
học hiện đại nh́n nhận rằng quyền
lực trong xă hội có từ ba nguồn: bạo lực,
tài phú, và tri thức. Đảng cộng sản lạm
dụng bạo lực trắng trợn và ngang ngược:
cướp đoạt tài sản của dân chúng — và nghiêm
trọng hơn — tước đoạt quyền tự do
ngôn luận và tự do báo chí truyền thông của
người dân, trấn áp tự do ư chí và tinh thần
của người dân, tất cả là để
đạt đến mục tiêu là quyền khống
chế tuyệt đối toàn xă hội. Xét về mặt
này, th́ Đảng Cộng Sản Trung Quốc là một con
quỷ nhập xác ăn bám có năng lực khống
chế tinh thần rất chặt chẽ, từ xưa
đến nay chưa từng xuất hiện thứ ǵ hung
ác hơn chúng trong lịch sử của nhân loại.
Trong văn
kiện " Tuyên ngôn của Đảng Cộng
Sản", phần cương lĩnh thứ nhất
của Đảng Cộng Sản, tư tưởng của Karl Marx là như
thế này: “năm 1848, một âm hồn đang lang thang
tại Âu Châu – âm hồn của chủ nghĩa cộng
sản”[9] . Một trăm năm sau, chủ nghĩa
cộng sản đă không chỉ là ‘âm hồn’ nữa, mà
đă có một h́nh tượng vật chất cụ
thể, hiện diện rơ ràng. ‘Âm hồn’ đó đă
trở thành con quỷ, và trong thế kỷ qua, như
một trận đại dịch lan tràn trên thế
giới, nó đă cướp đi hàng trăm triệu sinh
mạng, cướp đoạt của cải vật
chất, và thậm chí tinh thần và linh hồn, vốn là
tự do của biết bao dân chúng.
Nguyên tắc
căn bản bắt đầu của Đảng
cộng sản là tước đoạt tất cả tài
sản tư hữu, tiến đến sự diệt
tuyệt "giai cấp bóc lột". Thực ra, tài
sản tư hữu thuộc về cá nhân là nền
tảng của tất cả quyền lợi xă hội mà
người dân được hưởng, lắm lúc
cũng là một bộ phận trọng yếu góp phần
ǵn giữ văn hoá dân tộc. Người dân một khi
đă bị tước đoạt tài sản riêng tư,
th́ tất nhiên, sẽ bị tước đoạt cả
tự do tinh thần và tự do ư chí, rồi cuối cùng
sẽ mất nốt quyền tự do tranh thủ
quyền lợi xă hội và chính trị.
Khi đối
diện trước nguy cơ sụp đổ lên
đầu vào thập niên 1980, Đảng Cộng Sản
Trung Quốc buộc phải tiến hành cải cách kinh
tế, trả lại một số quyền lợi về
tài sản tư hữu cho người dân. Điều
ấy cũng đă tạo nên một lỗ hổng trong
cỗ máy chính quyền của Đảng cộng sản
Trung Quốc, một cỗ máy điều hành vốn
đ̣i hỏi độ chính xác cao. Đến nay, lỗ
hổng ấy càng ngày càng bị khoét rộng, nhất là vào
t́nh trạng bây giờ khi mà toàn thể đảng viên
Đảng cộng sản Trung Quốc đều điên
cuồng ganh sức góp nhặt tiền của.
Đó chính là
dấu hiệu cho thấy Đảng cộng sản Trung
Quốc — con quỷ phụ thể, cường bạo và
gian dối, liên tục thay đổi bộ mặt — đă
đến lúc suy vong. Nó run sợ và cảnh giác
trước bất kể khuấy động nhỏ nào.
Hơn bao giờ hết, nó đang điên cuồng góp
nhặt của cải và tăng cường quân cảnh
xiết chặt, điều khiển dân chúng mong kéo dài
mạng sống. Nhưng chính những trạng thái hành
động đó đang khoét sâu thêm lỗ hổng
khủng hoảng, đẩy mạnh nó đến chỗ
nguy cơ.
Trung Quốc ngày
nay, xem như là phồn vinh, nhưng nguy cơ đă
chồng chất trong xă hội đang được
đẩy tới mức độ căng thẳng
chưa từng có. Không thay đổi tập tính của
ḿnh, chính quyền của Đảng Cộng Sản Trung
Quốc vẫn đang tái diễn những thủ
đoạn xưa cũ dù đă có phần thoả hiệp
và tinh vi hơn — đàn áp biểu t́nh tại Thiên An Môn ngày 4
tháng 6 năm 1989, đàn áp Pháp Luân Công,… sau đó t́m cách
‘vuốt ve' — tất cả đều là thủ
đoạn để tách một bộ phận thiểu
số dân chúng mà Đảng gọi là ‘kẻ thù’ để
ra oai vũ lực nhằm duy tŕ thống trị với
h́nh thức nô dịch bằng khủng bố.
Dân tộc Trung
Hoa trong quá tŕnh hơn một trăm năm phải
đối diện với những thách thức lớn,
đă từ nhập khẩu vũ khí, cải cách chế
độ, cho đến cách mạng cực đoan một
cách kịch liệt. Tổn thất vô số sinh mạng,
đánh mất đi hầu hết văn minh dân tộc
truyền thống, như vậy, hiện tại minh
chứng rằng cách ứng phó này vẫn là một thất
bại. Trong sự phẫn uất, thù hận của toàn
dân, Đảng cộng sản Trung Quốc đă
cướp lấy thời cơ đoạt chính quyền,
và con quỷ nhập xác ăn bám ấy đă khống
chế một dân tộc có truyền thống văn minh lâu
đời bậc nhất thế giới này.
Thấy rơ nguy cơ
của tương lai, đại dân tộc Trung Hoa sẽ
không tránh khỏi phải có quyết định lựa
chọn một lần nữa. Nhưng dù là chọn thế
nào, th́ người dân Trung Quốc nhất định
phải tỉnh táo, không nên mơ tưởng Đảng
Cộng Sản Trung Quốc, mà cần nhận thức
rơ ràng rằng tai nạn
của dân tộc Trung Hoa th́ Đảng cộng sản
Trung Quốc không những không giải quyết mà c̣n gây thêm
tranh chấp, đều làm t́nh huống trở nên khó
khăn hơn, đều là trợ giúp con quỷ hung ác có
thêm cơ hội chiếm hữu lâu hơn nữa.
Chỉ có cách suy
xét thật tỉnh táo, vứt bỏ tất cả
những ảo ảnh, cương quyết không để
cho thù hận và sự mưu cầu lợi ích cá nhân làm
ảnh hưởng, th́ chúng ta mới có thể thoát
khỏi cơn ác mộng trong 50 năm qua dài đăng
đẳng, do con quỷ tà Cộng Sản thêu dệt nên.
Bản thân là một dân tộc tự do, chúng ta có thể
tái lập nền văn minh Trung
Hoa với nền tảng tôn trọng nhân tính và
thiện lương cho tất cả.
Chú Thích
[1]. Cuộc Cải Cách 100 Ngày kéo
dài 103 ngày kể từ ngày 11 tháng sáu cho tới ngày 21 tháng
chín năm 1898. Hoàng Đế Quang Tự (1875-1908) của
nhà Thanh ra lệnh một loạt cải cách về mặt
xă hội và hành chánh mặt dầu bị phản
đối kịch liệt từ nhóm thủ cựu.
Với sự ủng hộ
của Vương Thế Khải, Thái Hậu Từ Hy
đă tạo ra cuộc chính biến vào ngày 21 tháng chín
năm 1898. Bà ta đă đày Quang Tự vào biệt cung và
nắm lấy chính quyền với cương vị
nhiếp-chính. Cuộc Cải Cách 100 Ngày kết thúc bằng
sự phế bỏ hết cả những tân chính của
Quang Tự. Cùng lúc đó, sáu người chủ
trương cuộc cải cách th́ bị chặt
đầu.
[2]. Cách
Mạng Tân Hợi, lấy tên từ năm âm lịch Tân
Hợi, là cuộc lật đổ (10/10/1911 – 12/02/1912)
chính quyền nhà Thanh và việc thành lập chế
độ Cộng Ḥa Trung Quốc.
[3]. Phong
Trào Ngày Bốn Tháng Năm là cuộc biểu t́nh
đại qui mô đầu tiên trong lịch sử Trung
Quốc hiện đại và bắt đầu vào ngày 4
tháng 5 năm 1919.
[4]. Từ http://eserver.org/marx/1848-communist.manifesto/cm4.txt
[5]. Lá thư của Mao Trạch
Đông gởi cho vợ là Giang Thanh (1966).
[6]. Tài liệu từ http://www.debates.org/pages/trans2004a.html.
]7]. Siêu cơ cấu trong nội
dung của lư thuyết xă hội Mác Xít đề cập
tới đường lối giao tiếp giữa sự
chủ quan của con người và thể vật chất
của xă hội.
[8]. Từ chương 25 trong
Đạo Đức Kinh, một tác phẩm quan trọng
nhất của đạo Lăo, được viết
bởi Lăo Tử.
[9]. Từ http://eserver.org/marx/1848-communist.manifesto/cm4.txt.
Copyright © 2004
DAJIYUAN.COM, báo Hoa Ngữ DAJIYUAN